Ngoại truyện về Giang Vạn Tái
Lúc nhỏ tôi từng nuôi một chú thỏ.
Tôi thường nhặt những chai nước suối ở con phố ẩm thực cạnh chợ đêm.
Nó co ro nép bên thùng rác.
Một cục bông trắng mềm mại, lúc nào cũng xù lên.
Có lẽ là phần thưởng mà ai đó thắng được từ trò ném vòng ở chợ đêm.
Khi nuôi chán chê, họ vứt bỏ không thương tiếc.
Hồi ấy, dùng động vật sống làm giải thưởng là chuyện thường tình.
Mỗi khi đám đông tan đi, x/á/c của những chú mèo hoặc chú chó bé bỏng nằm la liệt, bị xe tải chở hàng đ/âm phải, ruồi nhặng vây kín.
Tình yêu mà người đời hô hào là nông cạn, chỉ thoáng qua đầu môi, chẳng mảy may đến trách nhiệm.
Đứng nhìn chú thỏ hồi lâu, tôi bước tới, cẩn trọng ôm nó vào lòng.
Đó là một chú thỏ trắng.
Đôi mắt tròn xoe long lanh, tựa hai quả nho lạnh lẽo đông cứng, chiếc mũi hồng khẽ động đậy.
Bản tính hiếu kỳ, dù bản thân nhút nhát vô cùng.
Tôi áp nó vào ng/ực, cảm giác ấm áp lan tỏa.
Tôi nghe rõ nhịp tim chúng tôi cùng đ/ập lo/ạn xạ, nhanh chậm lệch nhịp.
Hai làn sóng cô đơn giữa vũ trụ mênh mông, lại giao hòa một cách kỳ diệu.
Không thể nuôi nó trong nhà, nơi khói bụi m/ù mịt.
Bố tôi nghiện c/ờ b/ạc, mẹ tôi nghiện rư/ợu nặng.
Hai người họ suốt ngày chìm trong cơn say, hoặc có khi tỉnh táo cũng cãi vã không ngớt.
Không nghề nghiệp ổn định, sống nhờ vào trợ cấp.
Dù có chút tiền cũng đổ hết vào bài bạc và rư/ợu chè.
Chẳng bao giờ họ hỏi tôi đã ăn no chưa, thẳng thừng nhắc tôi là sản phẩm của một lần sơ ý, cho tôi sinh ra đã là ân huệ lớn lao, đương nhiên tôi không có tư cách nuôi thú cưng.
Thực ra họ sinh tôi chỉ để nhận trợ cấp nuôi con.
Có lần mẹ tôi say khướt nên đã lỡ lời.
Tôi không bận tâm.
Vì đã có thỏ bầu bạn cùng tôi rồi.
Tôi lắp chiếc lồng sắt, giấu nó trong công viên bỏ hoang cỏ mọc um tùm, điều chỉnh mãi sao cho nửa lồng phơi nắng, nửa còn lại chìm trong bóng râm.
Như thế, nó muốn tắm nắng hay trốn nắng đều được.
Mỗi sáng đến trường, tôi đều vòng qua công viên, vẫy tay chào tạm biệt cho đến khi khuất bóng hẳn.
Tan học, việc đầu tiên tôi làm là thay thức ăn và nước uống cho nó, rồi mãn nguyện xoa đầu nó.
Tôi thích ngắm nó ăn.
Chăm chú, yên lặng, không chút sợ hãi.
Mỗi lần đi qua trạm ve chai, tôi luôn để ý những cái cây ven đường, vì thỏ có vẻ rất thích ăn lá của những cái cây ấy.
Bóng cây lấp loáng, gió đêm dịu dàng, từng chiếc lá đong đầy ánh trăng.
Tôi hái xong, mang theo vô số vệt sao lấp lánh trên người đến công viên.
Băng qua bụi cỏ, tôi thấy nó cũng thức, đôi mắt phát sáng như hai viên ngọc lơ lửng trong đêm.
Màn đêm là đồng minh của chúng tôi.
Thỏ chủ động cọ vào tay tôi, xúc cảm từ lớp lông mềm mại ấm áp khiến lòng tôi quyến luyến.
Tôi sẽ không bao giờ quên.
Khi ấy tôi không tưởng tượng nổi trên đời có sinh vật nào hiền lành và tốt bụng hơn thỏ.
Thỏ ơi, thỏ ngoan, thỏ của tôi.
Khi mọi người xôn xao về ngày tận thế, cuồ/ng lo/ạn tích trữ lương thực, điều đầu tiên tôi nghĩ là thỏ phải làm sao?
Nó bé nhỏ, trắng nõn và mềm mại như thế, ít nhất phải sống thêm 100 năm nữa.
Với cả, tôi chưa kịp đặt tên cho nó.
Đang phân vân giữa Đại Thánh và Vân Tuyết.
Có lẽ nó không thích cả hai, mỗi lần tôi gọi tên xen kẽ, nó chỉ phản ứng hờ hững.
Dù là những cái tên sáo rỗng, nhưng đã vắt kiệt trí tưởng tượng của một đứa trẻ như tôi.
Cuối cùng, tôi quyết định gọi nó là Đại Thánh.
Dù nó không hài lòng cũng đành chịu, vì thỏ đâu biết nói.
Có chăng chỉ giậm chân gi/ận dỗi, nhưng như thế cũng đáng yêu lắm.
Nhưng Đại Thánh đã biến mất khỏi công viên.
Nó xuất hiện trên tấm thớt dơ bẩn trong nhà tôi.
Đầu vừa bị ch/ặt đ/ứt, m/áu còn rỉ ra.
Nhỏ giọt tí tách.