Hoàng đế là người vô cùng quyết đoán. Khi đã quyết định lập Chiêu Hoa công chúa xuất sắc nhất làm người kế vị, ông liền ban chỉ ngay lập tức, phong nàng làm Hoàng thái nữ mà không dùng danh nghĩa khảo nghiệm để kéo dài cuộc tranh đấu giữa nàng và các hoàng tử khác.

Bởi thân phận nữ nhi của Chiêu Hoa công chúa vốn là điểm yếu, trong lịch sử chưa từng có tiền lệ nữ tử làm thái tử. Hoàng đế hiểu rõ mình không thể kiên quyết ủng hộ nàng mãi, nên việc nàng nắm quyền sau này sẽ càng khó khăn.

Để ngăn tình thế x/ấu đi, sau khi ra quyết định, hoàng đế kiên định đứng sau lưng Chiêu Hoa công chúa. Ông tự tay đ/á/nh tan các thế lực ủng hộ những hoàng tử khác, phong họ làm quận vương rồi đuổi khỏi triều đình, để họ sống cuộc đời nhàn hạ giàu sang.

Việc không phong thẳng làm thân vương là để dành cơ hội cho Chiêu Hoa công chúa ban ân sau khi lên ngôi. Dù các hoàng tử sau này có cảm kích hay không, trong mắt thiên hạ, việc nàng không so đo hiềm khích mà phong họ làm thân vương chính là ân điển. Nếu họ dám phản nghịch, ắt bị coi là nghịch tặc, x/á/c suất thành công sẽ cực thấp.

Hoàng đế đã tính toán vô cùng chu đáo cho con gái. Các mẫu phi của những hoàng tử này đều bị giáng vị, quản thúc ch/ặt chẽ, không còn liên lạc được với thủ hạ.

Việc hoàng đế trực tiếp ra tay khiến các hoàng tử và hậu phi không còn không gian chống đối. Với sự ủng hộ này, lễ sắc phong Hoàng thái nữ diễn ra suôn sẻ. Những triều thần phản đối đã bị xử lý từ sớm, số còn lại dù bất mãn cũng không dám lên tiếng.

Lễ sắc phong Hoàng thái nữ được tổ chức long trọng hơn cả lễ lập Thái tử nam giới, bởi đây là vị Hoàng thái nữ đầu tiên của triều đại. Hoàng đế ra lệnh mọi quy cách phải cao nhất, không được để công chúa chịu thiệt thòi.

Sau khi chính thức trở thành Thái tử, Chiêu Hoa công chúa được hoàng đế tín nhiệm, dần xây dựng Đông cung với uy thế ngày càng lớn mạnh.

Từ khi Hoàng thái nữ ban chiếu chỉ lập người kế thừa, các gia đình quý tộc cũng bắt chước lập con gái đích làm thế nữ. Số lượng phụ nữ tự lập ngày càng tăng, việc nữ giới đứng đầu gia đình cũng trở nên phổ biến.

Trong các kỳ khoa cử, số thí sinh nữ tham gia dần tăng lên. Dù số đỗ tiến sĩ vẫn chủ yếu là nam giới, nhưng tỷ lệ nữ giới trúng tuyển lại rất cao, gần một nửa đều đỗ đạt.

Bởi những cô gái dám tham gia khoa cử đều là người học rộng, tự tin. Khác với nam giới - những người đã quen với chuyện thi cử, các nữ tử phải đối mặt với nhiều áp lực: ánh mắt kỳ thị, định kiến giới tính... Chính điều này khiến họ càng quyết tâm học hành chăm chỉ và thận trọng hơn trước khi dự thi.

Nếu nam giới trượt khoa cử, họ chỉ bị động viên "cố gắng lần sau". Nhưng nữ giới thất bại sẽ bị chê bai: "Con gái đọc sách làm gì", "về nhà lấy chồng sinh con là vừa". Vì thế, những ai dám thi đến cùng đều là người bản lĩnh, tài năng xuất chúng.

Sau khi đỗ đạt, các nữ quan tự nhiên quy tụ dưới trướng Hoàng thái nữ - vị đại diện quyền lực cao nhất của nữ giới. Họ trở thành lực lượng trung thành nhất ủng hộ bà.

Hoàng thái nữ cũng đặt niềm tin nhiều hơn vào nữ quan. Bởi nam quan phục vụ bà vì lợi ích "tòng long", có thể thay đổi chủ nếu thái tử khác lên ngôi. Nhưng nữ quan thì khác - sự tồn tại của họ gắn liền với Hoàng thái nữ. Nếu quyền lực rơi vào tay hoàng tử khác, họ sẽ bị gạt bỏ, thậm chí bị đưa vào hậu cung. Chừng nào còn khát vọng chính trị, họ sẽ ủng hộ bà vô điều kiện.

Khi số nữ quan đỗ khoa cử ngày càng đông, thế lực của Hoàng thái nữ cũng lớn mạnh hơn. Ảnh hưởng của nữ giới trên triều đình dần lan sang quân đội. Bà thành lập đội quân nữ, nhưng theo lời Ti Nguyên khuyên, không cho phối hợp chung với quân nam để tránh rắc rối.

Thà rằng tách nam binh và nữ binh ra huấn luyện riêng, tổ chức huấn luyện dã ngoại trên chiến trường. Nữ tướng quản lý nữ binh, nam tướng quản lý nam binh.

Phụ nữ vốn có thể chất yếu hơn đàn ông bẩm sinh, nhưng sau khi Ti Nguyên đưa ra phương pháp huấn luyện riêng, các nữ binh chỉ cần kiên trì rèn luyện thì giới hạn sức mạnh cũng không thua kém nam binh.

Giống như trong thế giới tu luyện và xã hội phát triển khoa học kỹ thuật, địa vị nam nữ dần bình đẳng. Bởi ở xã hội cổ đại không có tu luyện hay công nghệ, nguyên nhân sâu xa của tư tưởng "trọng nam kh/inh nữ" là do thể lực đàn ông vượt trội hơn trong lao động chân tay và chiến đấu.

Nhưng ở thế giới tu luyện, thiên phú không phân biệt giới tính. Sau khi tu luyện, khoảng cách thể chất tự nhiên dễ dàng được san bằng bằng tu vi. Mọi người chỉ xem trọng trình độ tu luyện, không phân biệt nam nữ.

Xã hội phát triển khoa học cũng tương tự - khi công nghệ giảm bớt yêu cầu về thể lực, nhiều việc nặng nhọc được máy móc thay thế. Phụ nữ được bù đắp điểm yếu thể chất nên địa vị được nâng cao.

Phương pháp huấn luyện của Ti Nguyên áp dụng được cho cả nam lẫn nữ. Chỉ cần kiên trì là đạt hiệu quả, giới hạn phát triển của nữ binh không thấp hơn nam binh. Khi ưu thế thể chất nam giới được san bằng, địa vị sẽ phụ thuộc vào thực lực và chiến công.

Hoàng thái nữ vô cùng phấn khích trước phương án này, từ đó càng thêm kính trọng vị Thành Quốc Công.

Tuy nhiên Ti Nguyên đã dần định rút khỏi triều đình, nhường sân khấu cho Ninh Phù và thế hệ thứ ba là Ninh Hi.

Sau khi sinh Ninh Hi, Ninh Phù không sinh thêm con. Nàng tập trung ôn lại Tứ thư Ngũ kinh - những sách khoa cử đã từng học trước đây.

Vốn là người giỏi cầm kỳ thi họa, trước kia Ninh Phù không mặn mà với khoa cử vì phụ nữ không được phép thi. Chỉ khi mẹ nàng - Trình thị - sinh em trai Nguyên Ca Nhi, nàng mới học những sách này để dạy em vỡ lòng.

Nhưng sau khi Nguyên Ca Nhi ch*t đuối, nàng bỏ dở việc học. Nay phụ nữ đã được phép thi cử, Ninh Phù quyết định tiếp tục học hành để chính thức đỗ đạt làm quan.

Dù có thể nhờ Ti Nguyên ban chức, nhưng tính cách kiêu hãnh không cho phép nàng đi cửa sau. Ninh Phù muốn dùng thực lực của mình đứng trên triều đình, chứng minh cho thiên hạ thấy: Dù không có con trai, cha nàng vẫn có thể tự hào vì con gái tài năng không kém cạnh ai!

Cô gái này cũng có thể làm tốt hơn cả con trai.

Trong xươ/ng cốt Ninh Phù có một sự kiên cường bướng bỉnh, lấy việc học làm lẽ sống, không ngừng phấn đấu với sức mạnh của kẻ sống trong tuyệt vọng. Ngay cả chồng cô là Lâm Thừa Kỳ cũng cảm thấy hổ thẹn và tự ti khi chứng kiến.

Cuối cùng, Ninh Phù đã thi đậu thuận lợi, hơn nữa còn đỗ Nhị giáp Tiến sĩ.

Khi biết tin Ninh Phù đậu Tiến sĩ, Trình thị vừa chúc mừng vừa khóc vì hạnh phúc. Bà chưa bao giờ nghĩ mình lại có được ngày hôm nay.

Những đ/au khổ ngày trước - vì không sinh được con trai, rồi tuyệt vọng khi con mất - giờ đây tựa như chuyện kiếp trước. Trong lòng Trình thị giờ chỉ còn niềm tự hào về con gái.

Ngay cả họ hàng nhà mẹ đẻ của Trình thị cũng không ngớt lời khen ngợi: "Con thật có phúc khi sinh được cô gái tốt thế này! Ai bảo sinh con gái không bằng con trai? Có được đứa con xuất sắc thế này, còn hơn mười đứa con trai khiến người ta vui sướng!"

Anh trai và chị dâu Trình thị lộ rõ vẻ gh/en tị. Họ đương nhiên phải gh/en, bởi dù có ba người con trai nhưng chẳng đứa nào nên người. Con trai cả được dạy dỗ nghiêm khắc cũng chỉ đỗ Tú tài, sau đó cố mãi vẫn không lên được Cử nhân. Hai đứa con trai thứ và út thì từ nhỏ được nuông chiều, không chịu nổi cực khổ của việc học hành.

Chẳng những học hành không xong, huống chi là tập võ vất vả. Có lẽ sau này chúng chỉ làm được những kẻ ăn bám, sống cảnh nhàn hạ mà không có tương lai. Trước đây họ còn lo lắng cho Trình thị, nghĩ rằng không có con trai thì về già sẽ khổ. Ai ngờ hóa ra chính họ mới là kẻ đáng thương.

Trình thị tuy không có con trai, chỉ một cô con gái nhưng cô gái ấy lại xuất sắc hơn cả ba đứa con trai của họ. Đặc biệt, cô con gái ấy còn sinh cho bà một đứa cháu ngoại tài giỏi là Ninh Hi. Anh chị Trình thị gh/en tị đến mắt đỏ hoe.

Trình thị mắt rưng rưng, miệng cười không ngớt: "Tất cả là do Phù nhi tự thân nỗ lực! Nó vốn ham học, trước không được đi thi khoa cử, giờ có cơ hội liền thử sức một lần. Ai ngờ lại đỗ luôn từng bước, cả đến Tiến sĩ nữa..."

Lời khiêm tốn ấy của Trình thị khiến những người xung quanh nghe mà chạnh lòng.

Danh sách chương

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Đọc tiếp

Bảng xếp hạng

Mới cập nhật

Xem thêm