Nhìn chung, nhà Minh hơn hai trăm năm, thực sự có thể gọi là chính trị gia chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong đó, Trương Cư Chính là nhà chính trị kiệt xuất nhất của triều đại Đại Minh.

Dĩ nhiên, thời trẻ Trương Cư Chính chưa từng nghĩ đến cải cách. Nhưng lúc này, ông đã xúc động trước tình cảnh xã hội đầy đ/au khổ. Trong những năm tháng thanh xuân ngao du, ông dần nhận ra các vấn đề xã hội. Trong tác phẩm 'Kinh Châu Phủ Đề Danh Ký', ông viết: 'Thuế ruộng không đều, dân nghèo thất nghiệp, người dân khổ sở vì đất đai bị chiếm đoạt.' Những điều này đã củng cố quyết tâm cải cách khi ông tham chính sau này.

Lý lắc đầu nói: 'Thực tế, khi vua Vạn Lịch lên ngôi, nhà Minh đã tồn tại hai trăm năm. Theo chu kỳ triều đại, đây gần như là giai đoạn cuối. Không ai biết Đại Minh có thể kéo dài bao lâu. Tình hình lúc bấy giờ thật đáng lo ngại.

Chính trị thối nát, biên phòng lỏng lẻo, dân chúng kiệt quệ - có thể nói Đại Minh đã đến đường cùng. Chỉ cần một thiên tai nhỏ cũng đủ khiến triều đình không chống đỡ nổi, mà thiên tai thường đi kèm nhân họa, như khởi nghĩa chẳng hạn.

Vì thế, việc Đại Minh đón nhận được Trương Cư Chính quả là điều khó tin. Ông chính là người thay đổi vận mệnh quốc gia.'

Trương Cư Chính thấu hiểu những vấn đề này. Ông chỉ ra năm tệ nạn xã hội tồn tại lâu đời: giới quý tộc kiêu căng buông thả, quan lại bê trễ, quản lý hủ bại, biên phòng không được củng cố, và ngân khố cạn kiệt.

Thời đó, chính sự thối nát, quan lại kết bè kéo cánh, nịnh thần lộng hành. Các đại thần trong triều chỉ biết tranh giành quyền lực. Quan chức địa phương không vì dân, tham nhũng công quỹ, bỏ mặc chính sự. Giới hào cường ngày càng vô đạo, dẫn đến tình trạng chiếm đoạt đất đai nghiêm trọng, đặc biệt là giới quý tộc và hoạn quan lợi dụng đặc quyền chiếm đất bằng mọi th/ủ đo/ạn.

Một bài ca d/ao thời ấy phản ánh:

'Mẫu ruộng bảy đấu thuế quan

Sáu đấu dâng châu, một đấu cưới sang

Lo nghĩ đến bạc đầu lang

Ruộng quan b/án tống, dân làng n/ợ mang

Giàu có thu thuê chẳng tránh

N/ợ chồng thuế chất đầy thân'

Đó chính là hiện thực phũ phàng - xã hội đất đai bị chiếm đoạt, lưu dân không nơi nương tựa. Hậu quả là thuế triều đình ngày càng ít, chi tiêu ngày càng tăng, dẫn đến khủng hoảng tài chính trầm trọng.

Vấn đề quân phí cũng nan giải. Đặc biệt năm Gia Tĩnh thứ 29, khi quân Mông Cổ áp sát Bắc Kinh, triều đình phải tăng quân số khiến chi phí bùng n/ổ. Ngân khố chỉ đủ chi trả 3 tháng, lương thực dự trữ đủ cho quân đội kinh thành trong 2 năm. Có thể nói, tài chính nhà Minh đã đến bờ vực sụp đổ.

Phía Bắc, quân Mông Cổ và Nữ Chân thường xuyên quấy nhiễu biên giới. Phía Nam hỗn lo/ạn liên miên. Sông Hoàng Hà ở Trung Nguyên nhiều lần vỡ đê, nhấn chìm hàng chục huyện... Đại Minh như đang ch*t dần.

Không phải không có người nhận ra vấn đề, nhưng nhận thức và giải quyết là hai chuyện khác nhau. Đa số không đủ năng lực hoặc quyết tâm thay đổi.

Nhưng vào thời điểm Đại Minh gặp được Trương Cư Chính, ông đã tuyên bố với mọi người về quyết tâm của mình.

Sau khi Trương Cư Chính trở thành thủ phụ, ông phụ tá hoàng đế tiến hành cải cách suốt mười năm. Đây là một cuộc chấn hưng chưa từng có trong lịch sử Đại Minh, ảnh hưởng đến tất cả mọi người. Áp lực mà Trương Cư Chính phải đối mặt là điều có thể tưởng tượng được, nhưng ông chưa từng bỏ cuộc.

Trong lịch sử, giai đoạn này được gọi là Vạn Lịch tân chính, hay còn gọi là cải cách của Trương Cư Chính.

Ngay khi bắt đầu cải cách, ông quyết tâm trước hết chỉnh đốn lại chính trị. Đây là nội dung trọng yếu, liên quan đến việc toàn bộ cuộc biến pháp có thể khởi động thành công hay không.

Trương Cư Chính cho rằng: "Muốn giải quyết mâu thuẫn, không nên vội vàng ổn định dân sinh; Điểm then chốt để an dân chính là kiểm tra lại chính trị". Ông rõ ràng coi việc "kiểm tra chính trị" là tiền đề để "ổn định dân chúng" và "quản lý đất nước".

Ông tập trung vào các phương diện "tôn trọng chủ quyền, quy định trách nhiệm, tín nhiệm thưởng ph/ạt, thống nhất mệnh lệnh", quyết liệt tiến hành chỉnh đốn nhằm chấn chỉnh tình trạng suy đồi: "Kỷ cương lỏng lẻo, cấp trên không làm gương, cấp dưới xu nịnh, trăm việc đùn đẩy, lấy sự m/ập mờ làm hòa giải, lấy chiều chuộng làm khéo léo".

Lúc bấy giờ, chỉ có tăng cường tập quyền, coi trọng mệnh lệnh, chấn chỉnh kỷ cương mới có thể "thiết lập pháp luật để quản lý công việc, nắm quyền lực để giữ vững quốc gia". Như vậy, các chính sách cải cách mới có thể thông suốt.

Để xây dựng quy định đ/á/nh giá thành tích hiệu quả, Trương Cư Chính đã sáng lập và ban hành "Khảo Thành pháp" vào năm Vạn Lịch đầu tiên. Cốt lõi của Khảo Thành pháp là chế định thời gian nghiêm ngặt, quy định rõ quan viên phải làm việc gì, hoàn thành khi nào và đạt tiêu chuẩn nào. Những ai không hoàn thành sẽ bị cách chức.

Phương pháp này tuy nghiêm khắc nhưng rất hiệu quả. Khảo Thành pháp tăng cường quyền lực cho nội các, thông qua sáu khoa và Đô Sát viện kiểm soát lục bộ, trong khi các tỉnh nghe lệnh từ lục bộ. Cuối cùng, tất cả cơ quan từ trung ương đến địa phương đều do nội các kiểm soát, tăng cường tập quyền trung ương và biến nội các thành trung tâm cải cách.

Đồng thời, nó thúc đẩy quan viên làm việc cẩn trọng, nâng cao hiệu suất hành chính. Quan địa phương thu thuế đúng hạn, giải quyết được khó khăn tài chính căng thẳng nhất.

Khảo Thành pháp tuy hiệu quả nhưng không phải ai cũng muốn tiếp nhận. Khi mới áp dụng, Trương Cư Chính gặp phải nhiều cản trở. Ông khéo léo viện dẫn "Đại Minh Hội Điển" của Thái tổ Chu Nguyên Chương, dùng "phép tắc tổ tông" để thúc đẩy tân chính."

Chu Nguyên Chương mắt sáng lên, vuốt cằm lẩm bẩm: "Cái Khảo Thành pháp này nghe có vẻ không tồi."

Những người khác: ... Họ cảm thấy có điều gì đó không ổn.

"Sau cải cách, hiệu suất làm việc của chính quyền nhà Minh được cải thiện rõ rệt. Sử sách miêu tả: 'Dù xa cách vạn dặm, mệnh lệnh vẫn được thực hiện ngay trong chiều tối hôm đó'."

Lý Thế Dân suy nghĩ: "Tham khảo cách này cũng không tệ." Tình hình mỗi nước khác nhau, không cần thấy chính sách tốt là áp dụng ngay, nhưng vẫn có thể học hỏi cách xử lý tình huống tương tự. Dù bản thân không dùng được, con cháu sau này có thể cần đến.

"Về mặt quân sự, ông đàm phán hòa bình với người Mông Cổ, trọng dụng các danh tướng như Thích Kế Quang, Lý Thành Lương trấn thủ phương Bắc, giữ vững biên cương, ổn định nội địa."

Lúc đó, ông thực hiện chính sách biên phòng mới với phương châm chỉ đạo: "Bên ngoài ràng buộc, bên trong củng cố phòng thủ".

Vấn đề "Củng cố phòng thủ trong nước" chính là tập trung tăng cường phòng ngự phía Bắc, nâng cao năng lực quân sự phòng vệ. Vì thế, ông đã lần lượt trọng dụng các tướng biên cương từng lập công lớn ở Đông Nam như Đàm Luân, Thích Kế Quang, Vương Túy Cổ, Phương Gặp Thời, Lý Thành Lương... giao cho họ trọng trách trấn giữ các vùng Kế Châu, Tuyên Phủ, Đại Đồng, Sơn Tây và Liêu Đông.

Để nâng cao sức chiến đấu của quân đội, Trương Cư Chính đã tâu xin Minh Mục Tông trao thêm quyền chủ động cho các tướng biên cương, giao cho họ quyền "tự quyết" trong phạm vi nhất định. Trong khi tích cực luyện tập binh mã, nâng cao sức mạnh quân đội, ông còn cho tăng cường xây dựng thành lũy, đắp Trường Thành nhằm củng cố thực lực quân sự của Đại Minh.

"Ràng buộc bên ngoài" chính là trên cơ sở "củng cố phòng thủ trong nước", cố gắng cải thiện qu/an h/ệ với các bộ tộc phương Bắc, tăng cường giao hảo. Bởi tình hình Đại Minh lúc đó không tốt, không thích hợp giao chiến nên ông chủ trương nghị hòa. Có thể nói, trong thời kỳ Trương Cư Chính nắm quyền và hai ba mươi năm sau đó, vùng biên cương phía Bắc chưa từng xảy ra chiến tranh lớn.

Vĩnh Lạc Đế mặt lộ vẻ trầm tư, trong lòng thở dài. Hòa đàm mãi mãi chỉ là giải pháp tạm thời, vẫn phải đ/á/nh cho sói dữ kh/iếp s/ợ mới được. Nhưng ông cũng hiểu rõ lúc đó không có cách nào khác. May thay đây không phải là sự nh/ục nh/ã cầu hòa nên ông có thể chấp nhận.

Sau đó, Trương Cư Chính bắt đầu thanh tra ruộng đất, tăng cường thu thuế. Ông thực hiện một chính sách mới, hợp nhất thuế ruộng, lao dịch và các khoản thuế phụ thành một loại thuế bằng bạc, thực hiện chế độ bản vị bạc. Cải cách này nhằm chỉnh đốn quy định thuế khóa và lao dịch, thay đổi khủng hoảng tài chính, là trọng tâm trong cải cách của Trương Cư Chính.

Do tình trạng sáp nhập ruộng đất, lấn chiếm đất công, dân chúng bỏ trốn khiến sổ địa bạ hỗn lo/ạn, triều đình ngày càng mất kiểm soát ruộng đất và nhân khẩu, ng/uồn thu cạn kiệt. Vì vậy, Trương Cư Chính mới thực hiện chính sách đo đạc lại ruộng đất, mở rộng diện tích thu thuế để phân bổ thuế má công bằng hơn.

Ông hợp nhất thuế khóa và lao dịch, gộp thuế ruộng với các khoản lao dịch thành một loại thuế duy nhất, đồng thời chuyển một phần lao dịch từ đinh sang ruộng đất. Thay vì thu lao dịch theo hộ và đinh như trước, nay căn cứ vào số đinh và ruộng đất để phân chia. Thuế lao dịch ngoài phần thu bằng lương thực, còn lại đều thu bằng bạc. Nông dân và các hộ chịu lao dịch có thể nộp tiền để thay thế, còn việc lao dịch sẽ do quan phủ thuê người làm. Ngoài ra, ông bãi bỏ chế độ "dân thu dân giải" (dân tự thu và nộp thuế thông qua lý trưởng), thay bằng chế độ "quan thu quan giải" (quan lại trực tiếp thu thuế). Từng cải cách này đều thể hiện sự quan tâm đến đời sống bách tính.

Bên cạnh đó, ông còn chú trọng tu sửa thủy lợi. Thời đó, việc vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc đều dựa vào đường thủy. Nhưng từ thời Chính Thống, sông Hoàng Hà nhiều lần vỡ đê gây khó khăn lớn cho giao thông đường thủy. Đến các đời Long Khánh, Vạn Lịch, sông Hoàng Hà lại vỡ đê khiến vận đạo tắc nghẽn. Dù đã thử khôi phục đường biển nhưng cuối cùng thất bại.

Để nạo vét đường sông ra biển, Trương Cư Chính nghe theo kiến nghị của Phan Quý Huấn, dùng một năm rưỡi xây đê từ sông Hoàng Hà đến sông Hoài, kh/ống ch/ế được lũ lụt, thông suốt đường thủy, biến nhiều vùng đất bỏ hoang thành ruộng tốt. Biện pháp trị thủy của Phan Quý Huấn có ảnh hưởng sâu sắc đến hàng trăm năm sau.

Nhờ những cải cách tích cực của Trương Cư Chính, quốc khố lúc đó tích trữ được hơn sáu bảy trăm vạn lạng bạc, lương thực dự trữ lên tới hơn 1.300 vạn thạch, đủ chi dùng trong mười năm, thật sự đạt được cảnh quốc phú dân cường.

So với tình trạng kho bạc nhà nước giữa năm Gia Tĩnh chỉ còn lương thực dự trữ không đủ dùng cho một năm, đây quả thực là một bước tiến dài."

Trương Cư Chính không kìm được nụ cười nhẹ. Đây chính là thành quả cuối cùng của ông sao?

Quốc phú dân cường. Ông vui mừng khôn xiết vì cụm từ này.

Ông nguyện tiếp tục nỗ lực, làm tốt hơn nữa.

"Lần cải cách này đã tăng cường quyền lực tập trung của bộ máy phong kiến, về cơ bản thực hiện được 'Pháp chế phải nghiêm', 'Lời nói phải hiệu quả', giúp tài chính triều Minh thu về tăng trưởng rõ rệt, kinh tế xã hội được phục hồi và phát triển, đồng thời chuyển biến nền chính trị đã suy yếu của nhà Minh."

"Nhưng đồng thời, cuộc cải cách đã chạm đến lợi ích của lượng lớn quan lại và tầng lớp quý tộc, nên không tránh khỏi sự phản kháng mãnh liệt từ phe bảo thủ."

"Ngày 26 tháng 10 năm Vạn Lịch thứ 10, Trương Cư Chính qu/a đ/ời vì bệ/nh. Hoàng đế ngừng triều chính, truy tặng ông tước Trụ Quốc, thụy hiệu Văn Trung."

"Vốn đây là kết cục không tồi, nhưng chỉ bốn ngày sau khi Trương Cư Chính mất, Ngự sử Lôi Sĩ Tránh cùng bảy quan ngôn quan đã dâng tấu hặc tội Phan Thịnh. Vạn Lịch bèn cách chức Phan Thịnh."

"Phan Thịnh vốn là người do Trương Cư Chính tiến cử khi còn sống. Việc ông ta bị hạ bệ chính là dấu hiệu cho thấy Trương Cư Chính đã thất sủng."

"Có người thắc mắc: Người ch*t rồi thì thất sủng thế nào được?"

"Tất nhiên là được. Các quan ngôn quan đã chĩa mũi dùi vào Trương Cư Chính. Vạn Lịch bèn hạ lệnh khám nhà Trương Cư Chính, tước bỏ mọi tước vị, thu hồi các ân sắc ban tặng lúc sinh thời, công bố tội trạng khắp thiên hạ."

"Thi hài Trương Cư Chính bị khai quật để hành tội, gia quyến kẻ ch*t đói người lưu vo/ng. Mãi sau này, dưới áp lực dư luận, hoàng đế mới ngừng việc trả th/ù."

"Thấy chưa, người ch*t tuy không làm gì được, nhưng người sống có thể tận tay trả th/ù. Vậy nên người ch*t cũng có thể thất sủng đó."

Trương Cư Chính giữ vẻ mặt bình thản khiến người khác không đoán được tâm tư. Các đại thần khác thì sắc mặt biến đổi khôn lường - triều cục sắp tới chắc chắn sẽ có biến động lớn.

"Sau mười năm cải cách, nhà Minh đạt được thời kỳ trung hưng ngắn ngủi. Trương Cư Chính dùng th/ủ đo/ạn cưỡ/ng ch/ế thực hiện cải cách từ trên xuống dưới, trở thành cuộc biến pháp thành công sau thời Thương Ưởng, ảnh hưởng sâu rộng. Đây cũng là lý do Trương Cư Chính được tôn là chính trị gia số một triều Minh."

"Dĩ nhiên, người ch*t rồi thì đạo lý gì cũng thành mây khói. Đúng vậy, muốn bôi nhọ thì chỉ một câu là đủ."

Trương Cư Chính mặt co gi/ật - việc này thật khó mà chấp nhận được.

Thương Ưởng không khỏi liếc nhìn vua mình: Phải chăng ông ta cũng sẽ không tránh khỏi kết cục bị bôi nhọ sau khi ch*t?

————————

Cảm ơn các đ/ộc giả đã ủng hộ vé Bá Vương và dịch dinh dưỡng trong khoảng thời gian từ 16:53:37 đến 23:03:36 ngày 11/08/2023!

Đặc biệt cảm ơn:

- Lam Án: 1 tên lửa

- Lam Án: 48 dịch dinh dưỡng

Rất cảm kích sự ủng hộ của mọi người, tôi sẽ tiếp tục cố gắng!

Danh sách chương

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Đọc tiếp

Bảng xếp hạng

Mới cập nhật

Xem thêm