Thi nhân Đái Thủ Luân từng viết bài thơ: Cờ xí nhà Hán giăng đầy núi Âm, không thấy người Hồ dắt ngựa về. Nguyện đem thân này báo đền nước, hà tất sinh vào cửa ải Ngọc Môn.
Quân đội nhà Hán như thế, quân đội nhà Đường cũng vậy.
Nhắc đến Quách Tử Nghi, không thể không nhớ tới cháu trai Quách Hân của ông.
Ngày ấy, Đường Thái Tông Lý Thế Dân điều đại tướng Hầu Quân Tập tiêu diệt nước Cao Xươ/ng, sau đó lập An Tây đô hộ phủ ở Giao Hà. Đến thời Đường Cao Tông và Võ Tắc Thiên, phạm vi An Tây ngày càng mở rộng, danh tiếng lừng xa.
Ở thời kỳ đỉnh cao, quân đội nhà Đường đóng ở Bắc Đình và An Tây khiến các nước Trung Á kh/iếp s/ợ, tạo nên huyền thoại bất bại. Biết bao bộ tộc quy phục vì sợ hãi, vô số thành bang thần phục vì kính nể.
Nhưng sau lo/ạn An Sử, thế nước nhà Đường suy yếu. Để dẹp lo/ạn, triều đình phải điều phần lớn quân tinh nhuệ từ An Tây và Bắc Đình về. Trước lo/ạn, An Tây đô hộ phủ có hơn mười vạn quân, sau còn lại hai ba vạn, thực lực giảm sút nghiêm trọng. Trong khi đó, nước Thổ Phiên láng giềng ngày càng hùng mạnh, thừa cơ quấy nhiễu biên cương.
Trước tình hình ấy, Đường Đại Tông Lý Dự cử Tả võ vệ đại tướng quân Quách Hân đến trấn thủ An Tây. Không ngờ chuyến đi này kéo dài hơn bốn mươi năm, ông gắn bó cả đời với biên ải.
Thiếu niên Quách Hân ngước nhìn màn trời, ánh mắt đầy kiên định.
Quách Tử Nghi vỗ vai cháu: "Sợ không?"
"Bảo vệ cương thổ Đại Đường là trách nhiệm của cháu." Quách Hân đáp rành rọt.
Quách Tử Nghi vừa mừng vừa lo, nghiêm giọng dặn: "Hôm nay con đã làm tốt, xứng danh dòng họ Quách. Sau này phải luôn như thế."
Khi Quách Hân nhận nhiệm vụ, Thổ Phiên thấy nhà Đường suy yếu liền đ/á/nh chiếm Hành lang Hà Tây. Mất Hà Tây đồng nghĩa An Tây và Bắc Đình bị cô lập, triều đình không còn kiểm soát được vùng này.
Thế nhưng, Quách Hân cùng Lý Nguyên Trung - trấn thủ Bắc Đình - vẫn một lòng tôn thờ nhà Đường. Họ dựa vào sức mình chống trả bao cuộc tấn công của Thổ Phiên, giữ vững biên cương Tây Vực trong suốt thời kỳ hỗn lo/ạn.
Giữa vòng vây, họ vẫn tìm cách liên lạc với triều đình. Năm Trung Hưng thứ hai đời Đường Đức Tông, sứ giả vòng qua Hồi Hột đột phá phong tỏa, đến Trường An báo tin: Quân dân An Tây và Bắc Đình vẫn kiên trung giữ đất, chờ đợi triều đình.
Lý Thế Dân lặng nghe từng chữ, lòng dâng trào cảm xúc. An Tây - vùng đất chính ông lập nên - cuối cùng vẫn được giữ vững nhờ lòng trung kiên ấy.
Từ sau khi hành lang Hà Tây thất thủ, triều Đường và Tây Vực gần như mất liên lạc, các vùng An Tây và Bắc Đình cũng bị cô lập từ lâu.
Mãi đến lúc này, họ mới biết rằng hai cánh quân này vẫn kiên cường phòng thủ, khiến hai vùng đất này vẫn thuộc về Đại Đường.
Đường Đức Tông phong tặng Quách Hân làm Vũ Uy quận vương, Lý Nguyên Trung làm Tha Nhậm quận vương, đồng thời hạ lệnh thăng một cấp cho toàn bộ tướng sĩ đồn trú ở An Tây và Bắc Đình.
Nhưng những vinh dự này chỉ khích lệ được tinh thần chứ không mang lại lợi ích thực chất. Lúc này triều Đường đang trong cảnh hoạn quan lo/ạn chính và quốc lực suy kiệt, hoàn toàn bất lực trong việc thu hồi hành lang Hà Tây. Không có hành lang này, triều đình không thể tiếp tế quân nhu cho An Tây và Bắc Đình.
Dù vậy, thông qua lần liên lạc này với Trường An, họ vẫn nhận được sự khích lệ lớn. Biết rõ triều đình không thể viện trợ nhưng họ vẫn không từ bỏ. Trong tình cảnh thiếu thốn, Quách Hân quyết định vừa cho quân đội khai hoang vừa tự đúc tiền để tự cấp tự túc.
Tự ý đúc tiền vốn là trọng tội, nên những năm trước dù khó khăn ông vẫn không dám làm. Mãi đến lúc này, ông mới dám đúc tiền dưới danh nghĩa triều đình. Về sau, các nhà khảo cổ đã khai quật được lượng lớn tiền xu niên hiệu Kiến Trung của Đại Đường ở đây.
Điều đáng nói là niên hiệu Kiến Trung của Đường Đức Tông chỉ dùng trong 4 năm, nhưng ở Tân Cương cách Trường An ngàn dặm lại tìm thấy nhiều tiền xu này. Nguyên nhân là Quách Hân và các tướng sĩ biên cương sau khi mất liên lạc với triều đình đã không biết niên hiệu đã đổi. Họ vẫn dùng niên hiệu Kiến Trung và đúc lượng lớn tiền xu này ở An Tây và Bắc Đình, nên con cháu mới tìm thấy chúng tại Tân Cương.
Lý Trị sắc mặt biến đổi. Ông vốn không coi trọng vùng An Tây, không ngờ khi Đại Đường nguy nan, các tướng sĩ nơi ấy vẫn kiên cường giữ vững lãnh thổ. Chỗ ông cho là không quan trọng lại được quân đội tuân thủ nghiêm ngặt, không để mất một tấc đất.
- Mị nương, ta thật hổ thẹn - ông thở dài.
- Vậy hãy thay đổi từ bây giờ đi - Võ hoàng hậu khẽ nói. Bà hiểu rõ không phải sợ phạm sai lầm, mà là biết sai nhưng vẫn cố chấp.
Trong hoàn cảnh tự cung tự cấp ấy, quân Đường ở An Tây và Bắc Đình vẫn kiên trì phòng thủ biên cương. Dù sau này tầng lớp thống trị triều Đường đã lãng quên họ, họ vẫn một lòng vì nước giữ ải.
Trong thời gian này, Lý Nguyên Trung qu/a đ/ời vì bệ/nh. Phó tướng Dương Tập Cổ được cử làm Đô hộ Bắc Đình. Không lâu sau, Thổ Phiên tấn công Bắc Đình. Lần này may mắn Thổ Phiên không tập trung toàn lực, Dương Tập Cổ buộc phải cầu viện Hồi Hột. Nhưng Thổ Phiên chuẩn bị kỹ lưỡng, liên kết nhiều bộ lạc Tây Vực cùng tấn công khiến Bắc Đình và quân Hồi Hột nhanh chóng thất bại.
Năm Trinh Nguyên thứ bảy, phủ Đô hộ Bắc Đình gần như hoàn toàn rơi vào tay Thổ Phiên. Quân đội của Dương Tập Cổ chỉ còn hơn hai nghìn người. Biết không thể giữ được Bắc Đình, ông đành dẫn tàn quân rút về thành Tây Châu thuộc phủ Đô hộ An Tây.
Bởi vì Hồi Hột cũng bị Thổ Phiên đ/á/nh bại trong chiến đấu, nên đã tự mình cầu hòa với Thổ Phiên.
Để được Thổ Phiên thông cảm, Đại tướng Hồi Hột là Hiệt Tại Già Tư đứng ra dụ Dương Tập Cổ đang chuẩn bị tháo chạy, rồi ch/ém ch*t ông ta ngay tại chỗ.
Toàn bộ hơn hai nghìn quân của Dương Tập Cổ bị Hồi Hột bắt làm tù binh. Đầu của Dương Tập Cổ cùng tù binh bị giao nộp cho Thổ Phiên. Việc Dương Tập Cổ bị dụ gi*t đ/á/nh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của phần lớn Bắc Đình đô hộ phủ.
Lúc này, Quách Hân chỉ còn hai lựa chọn: một là đầu hàng Thổ Phiên, hai là chiến đấu đến ch*t.
Trong tình thế đó, Quách Hân quyết định tiếp tục giữ vững An Tây. Cuộc phòng thủ này kéo dài suốt mười tám năm.
Trong mười tám năm ấy, bốn trấn của An Tây lần lượt bị Thổ Phiên chiếm mất. Cuối cùng, Quách Hân chỉ còn co cụm giữ thành Quy Tư.
Về thời điểm chính x/á/c khi phần lớn An Tây đô hộ phủ bị Thổ Phiên công phá, sử sách không ghi chép rõ ràng. Ta chỉ có thể suy đoán vào khoảng năm 808, tức năm Nguyên Hòa thứ ba dưới thời Đường Hiến Tông.
Năm đó, An Tây đô hộ phủ đối mặt với trận chiến á/c liệt nhất từ khi thành lập.
Cuộc tổng tấn công vào Quy Tư thành của Thổ Phiên cũng báo hiệu sự diệt vo/ng của An Tây đô hộ phủ.
Chàng trai trẻ năm xưa ra trấn biên cương giờ đã thành lão tướng Quách Hân. Từ thời Đường Đại Tông, ông nhậm chức Đô hộ An Tây, trải qua bốn đời hoàng đế: Đại Tông, Đức Tông, Thuận Tông, Hiến Tông. Hơn bốn mươi năm trấn thủ An Tây, những binh sĩ cùng ông xuất chinh năm ấy giờ cũng đều đầu bạc.
Đại Đường từ thời Đường Đức Tông dần hình thành cục diện phiên trấn cát cứ. Khi ấy, triều đình đã bỏ mặc An Tây và Bắc Đình.
Nhưng những tướng lĩnh trấn thủ biên cương như Quách Hân, Lý Nguyên Trung, Dương Tập Cổ vẫn kiên tâm vì Đại Đường giữ vững biên ải.
Trận Quy Tư cuối cùng, vị lão tướng tóc bạc cùng toàn bộ binh sĩ hi sinh nơi sa trường, anh dũng hiến mình cho tổ quốc.
Yên lặng hồi lâu, người kể chuyện trầm giọng đ/au xót:
Từ đó, quân đội An Tây đô hộ phủ gần như bị tiêu diệt toàn bộ. Những binh sĩ tóc bạc ấy đã đổ m/áu nơi biên cương để bảo vệ vinh quang cuối cùng của Đại Đường. Kể từ đây, An Tây đô hộ phủ hoàn toàn biến mất khỏi bản đồ quản lý của triều Đường.
Từ năm Trinh Quán thứ mười bốn thời Đường Thái Tông thành lập cho đến năm Nguyên Hòa thứ ba thời Đường Hiến Tông sụp đổ, An Tây đô hộ phủ tồn tại 168 năm, viết nên trang sử oai hùng nơi biên ải Đại Đường.
Thiếu niên đầu quân giữ biên thùy
Trọn đời chỉ một lòng báo quốc
Tráng niên vượt ải Ngọc Môn Quan
Người gác biên cương m/áu đã cạn
Đầu bạc phơ cả thành
Ch*t chẳng buông đ/ao gỗ
Một mình chống năm mươi năm
Sao dám quên Đại Đường?
Sao dám quên Đại Đường ư?
Đó là đường về, là cố thổ, là mấy chục năm kiên trinh gìn giữ...
Lý Thế Dân rơi lệ đầm đìa. Vốn là người đa cảm, nhưng từ khi lên ngôi, mọi người đều khuyên ông không được khóc, không được cười, không được tùy tiện, không được bộc lộ yêu gh/ét. Nhưng lần này, quả thực quá đ/au lòng.
Phòng Huyền Linh và Đỗ Như Hối liếc nhau, thở dài khẽ bảo: Thôi để bệ hạ khóc một chút cho nhẹ lòng.