Cải cách của Vương An Thạch có cả mặt lợi lẫn hại. Một mặt giúp tăng thu nhập tài chính cho triều đình, nhưng mặt khác lại vắt kiệt sức dân nghèo. Việc xây dựng quân đội cũng dẫn đến tình trạng bạc đãi binh lính. Do dùng người không đúng cách và thi hành sai lệch, cải cách đã mang lại nhiều tác động tiêu cực khiến dân chúng khổ sở.

Trong triều đình, phe cũ và phe mới tranh giành gay gắt, công kích lẫn nhau khiến Vương An Thạch bị chỉ trích dữ dội. Ông buộc phải từ chức tể tướng hai lần vào năm thứ 7 và năm thứ 9. Tuy nhiên, dưới thời Tống Thần Tông, cải cách về cơ bản vẫn được duy trì.

Đến năm Nguyên Phong thứ 8, Tống Thần Tông qu/a đ/ời. Con trai nhỏ tuổi Triệu Hú lên ngôi, Thái hậu Cao nhiếp chính đã bổ nhiệm Tư Mã Quang làm tướng. Tất cả cải cách mới đều bị bãi bỏ.

Dù phản đối cải cách, nhưng dưới thời Thái hậu Cao, nhà Tống vẫn ổn định phát triển và chuyển giao quyền lực suôn sẻ cho Tống Triết Tông. Giống cha mình, Tống Triết Tông là người kiên định ủng hộ chiến tranh và khôi phục cải cách. Ông trọng dụng Chương Đôn, Tăng Bố thuộc phe mới, từng bước khôi phục các chính sách miễn dịch, mạ non, m/ua b/án. Tiếc rằng phe mới sau đó lại phân liệt nội bộ, làm suy yếu cải cách.

Tống Triết Tông là vị hoàng đế hiếu chiến. Về quân sự, ông thay đổi chính sách hòa hoãn, phát động hai chiến dịch Bình Hạ Thành buộc Tây Hạ thần phục, lại khởi động Hà Hoàng chi dịch thu phục vùng Thanh Đường. Những thành tựu này cho thấy ông là vị vua năng động.

Nhưng số phận các hoàng đế nhà Tống thường kỳ lạ: người tài lại đoản mệnh, kẻ tầm thường lại sống lâu. Đến Tống Triết Tông cũng không ngoại lệ. Cuối đời, ông liên tiếp mất nhiều con nhỏ nên suy sụp tinh thần, qu/a đ/ời ở tuổi 25.

Triều đình nhà Tống nghe tin này đều thảng thốt. Các bề tôi khẩn thiết: "Bệ hạ hãy giữ gìn long thể! Nhà Tống không thể không có ngài!". Trước nguy cơ vo/ng quốc, đây có lẽ là lúc cả triều đình đồng lòng nhất. Tống Triết Tông chua xót nghĩ: Đây chính là sự chân thành hiếm hoi của bá quan vậy.

Có lẽ, ông thật sự không muốn ch*t. Ông còn quá nhiều hoài bão dang dở, vẫn chưa thể từ bỏ được nhà Tống...

Về sau mọi chuyện hẳn ai cũng đã rõ, không cần nhắc lại. Tóm lại, dưới thời Thái hậu Cao và Tống Triết Tông cùng nhau trị vì, triều chính nhà Tống tương đối sáng suốt, kinh tế cực kỳ thịnh vượng.

Vì thế, thời Tống Triết Tông được xem là giai đoạn cuối cùng của Bắc Tống khi kinh tế phồn thịnh, thiên hạ ổn định, chính trị minh bạch và quốc lực hùng mạnh. Điều này có liên quan mật thiết đến nền tảng mà cải cách của Vương An Thạch để lại.

Khi một quốc gia bước vào giai đoạn giai cấp bị cứng nhắc, cải cách để hùng mạnh là điều không thể tránh khỏi. Nếu không thay đổi, chỉ còn cách chờ đến lúc dân chúng không chịu nổi nổi dậy khởi nghĩa, để thiên hạ một lần nữa thay m/áu - khi đó hậu quả sẽ còn lớn hơn gấp bội.

Lịch sử luôn là vòng tuần hoàn. Chuyện cũ chưa kịp quên, chuyện mới đã tới. Lấy lịch sử làm gương vẫn là bài học quý giá.

Nói đến Vương An Thạch thì không thể không nhắc đến cải cách. Nhưng sự nghiệp của ông không chỉ dừng ở đó. Ông còn là một đại văn hào lỗi lạc. Ban đầu khi biết đến Vương An Thạch, tôi chỉ nghĩ ông là một trong Đường Tống bát đại gia.

Tài năng văn chương của Vương An Thạch hiển nhiên nổi bật. Dù không làm quan, ông vẫn có thể lưu danh sử sách như một đại văn hào. Ông chuyên tâm nghiên c/ứu kinh điển, sáng lập "Tân học Kinh công", thúc đẩy trào lưu biến đổi học thuật thời Tống. Văn xuôi của ông mạnh mẽ sắc sảo, nằm trong "Đường Tống bát đại gia". Thơ ông thiên về triết lý và tu từ, đến tuổi già càng thêm hàm súc thâm trầm, sâu lắng mà không gò ép. Với phong cách thần thái đ/ộc đáo, ông tạo thành trường phái "Vương Kinh Công thể" trong thi đàn Bắc Tống. Từ phú tuy không nhiều nhưng phong cách cao nhã, thoát khỏi lối mòn cũ.

Bài "Quế chi hương - Kim Lăng hoài cổ" của ông ngang tàng u uẩn, cùng với "Ngư gia ngạo - Tắc hạ thu cảnh dị" của Phạm Trọng Yêm được xem là khởi ng/uồn của phái từ phóng khoáng, ảnh hưởng sâu rộng đến hậu thế. Có thể nói, với tư cách một nhà văn, Vương An Thạch cũng vô cùng xuất chúng.

Đời sau dù khen chê thế nào, tôi nghĩ ông cũng chẳng hối tiếc. Như câu thơ ông từng viết: "Đường đời còn dài vạn dặm, ta sẽ kiên trì tìm ki/ếm".

Mỗi nhà cải cách đều mang tâm thế quyết liệt tiến về phía trước giữa dòng chảy lịch sử. Dù con đường có gian nan, họ vẫn kiên định bước đi. Như lời mở đầu đã nói: Ngưỡng m/ộ núi cao, cảnh đẹp còn đó, nguyện cùng mọi người chung sức.

Danh sách chương

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Đọc tiếp

Bảng xếp hạng

Mới cập nhật

Xem thêm