Trong khi không ngừng phát triển quân sự, Triệu Khuông Dận cũng đạt được nhiều thành tựu về chính trị. Ông thực hiện ba cương lĩnh lớn: "Thu hồi tinh binh, tước đoạt quyền lực, kiểm soát lương thực - tài chính", cùng với chính sách "Rư/ợu ngon tước binh quyền". Ông còn áp dụng các biện pháp như "Đổi chỗ các tướng lĩnh", "Mạnh yếu hỗ trợ", "Nội ngoại kiềm chế", "Ba năm luân chuyển", thiết lập chức Thông phán và phân chia quyền lực để củng cố quyền lực trung ương.
Đặc biệt đáng chú ý, Triệu Khuông Dận là một trong số ít hoàng đế không gi*t hại công thần.
Là một vị vua lên ngôi bằng cách đặc biệt, dù e ngại võ tướng nhưng ông không dùng b/ạo l/ực để giải quyết, mà khéo léo tổ chức vở kịch "Rư/ợu ngon tước binh quyền".
Người dẫn chuyện hóm hỉnh kể: "Này các huynh đệ, khi giàu sang phú quý thì đại ca đã dẫn các ngươi phát tài thật rồi! Giờ cuộc sống sung túc rồi, để khỏi mất tình huynh đệ, ta đành làm kẻ tiểu nhân trước, quân tử sau. Mọi người giao binh quyền đi, sau này vẫn là anh em tốt!"
Dĩ nhiên Triệu Khuông Dận không nói nguyên văn thế, nhưng đại ý là vậy.
Khi đất nước dần ổn định, việc thu hẹp binh quyền là cần thiết để ngăn võ tướng kiêu căng. Miễn là không qua cầu rút ván thì không sao.
Người dẫn chuyện vuốt cằm: "Nói về Triệu Khuông Dận thật mâu thuẫn. Bảo ông trọng tình nghĩa thì lại chiếm đoạt gia sản huynh đệ. Bảo bạc tình thì lại đối xử tử tế với hậu duệ nhà họ Sài, đãi ngộ công thần đầy đủ, thu binh quyền trong hòa bình.
Lịch sử đầy vua chúa gi*t hại công thần, nhưng đó chưa bao giờ là lựa chọn tối ưu của Triệu Khuông Dận. Xét ở góc độ nào đó, làm vua thì ông cũng là ông chủ khá tốt."
Các võ tướng thời Tống Thái Tổ gãi đầu đồng tình - quả thực so với đồng nghiệp bị hại trong các triều đại khác, họ may mắn hơn nhiều.
"Thu hẹp binh quyền là cần thiết và đúng đắn chính trị", người dẫn chuyện tiếp lời. "Nhờ thế mới giữ được hòa khí quân thần, tránh chiến tranh đổ m/áu."
"Cũng cần nói thêm: thời lo/ạn trọng võ, thời bình trọng văn - triều đại nào cũng vậy. Xuất phát từ hoàn cảnh Ngũ Đại Thập Quốc và kinh nghiệm bản thân, Triệu Khuông Dận đề phòng võ tướng hơn."
"Hậu thế căn cứ vào lời thề 'Không gi*t sĩ phu và người can gián' trong 'Thái tổ thề bia', cho rằng nhà Tống 'trọng văn kh/inh võ' là quốc sách từ thời Triệu Khuông Dận. Nhưng thực tế ông chỉ kiềm chế võ quan chứ không hẳn đề cao văn quan. Ông từng nói với Triệu Phổ: 'Phương trấn đời Ngũ Đại t/àn b/ạo khiến dân chúng khốn khổ...'"
Triệu Khuông Dận cho rằng việc phân công các văn sĩ chỉ vì họ gây tổn hại ít hơn võ nhân và không đe dọa nền tảng chính quyền như võ tướng. Ông gật đầu đồng tình, không ngờ rằng các hoàng đế sau này lại khiến văn võ mất cân bằng hoàn toàn. Thông thường, hoàng đế phải biết cách cân bằng giữa hai bên mới là điều đúng đắn.
Ngoài ra, Triệu Khuông Dận tiếp tục hoàn thiện chế độ khoa cử và chỉnh sửa pháp luật dựa trên tình hình đất nước. Nhà Tống khi thành lập có nhiều điều luật trong bộ 《Hình Thống》 chưa hợp lý. Ông tiếp thu đề nghị của quan Đại Lý Tự Đậu Nghi, sai người chỉnh sửa và hoàn thiện 《Tống Hình Thống》 vào năm Càn Đức thứ nhất.
Triệu Khuông Dận hạ chiếu: “Giao cho Đại Lý Tự khắc bản gỗ in ấn, ban hành khắp thiên hạ”. 《Tống Hình Thống》 được coi là bộ luật in khắc gỗ đầu tiên trong lịch sử nước ta. Kỹ thuật khắc gỗ này cũng là một trong những di sản văn hóa phi vật thể đầu tiên được công nhận.
Ông đặc biệt chú trọng quản lý sông Hoàng Hà - con sông ảnh hưởng lớn đến đời sống dân chúng. Vấn đề chính của Hoàng Hà là lũ lụt. Thời Ngũ Đại, sông từng vỡ đê và đổi dòng chảy, nhấn chìm nhiều làng mạc. Đến thời nhà Tống, thủy tai vẫn thường xuyên xảy ra.
Năm Kiến Long thứ ba, Triệu Khuông Dận ra lệnh xây đê dọc Hoàng Hà, trồng cây chắn sóng để phòng chống lũ. Hàng năm vào các tháng Giêng, Hai, Ba, ông quy định thời gian tu sửa đê điều và yêu cầu kiểm tra nghiêm ngặt. Nhờ vậy, trong 17 năm ông tại vị, Hoàng Hà chỉ vỡ đê vài chục lần - con số rất nhỏ so với các triều đại khác thường xuyên chịu thiên tai dù hàng năm đều tu sửa.
Ngoài Hoàng Hà, ông còn chỉ đạo nạo vét các sông lớn như Vận Hà, Biện Hà, Thái Hà để cải thiện giao thông thủy và phòng chống lũ lụt.
Dòng sông thông suốt giúp ổn định nông nghiệp và kinh tế, đồng thời đóng vai trò quan trọng trong lưu thông thương mại.
Triệu Khuông Dận rất coi trọng sản xuất nông nghiệp và đã giảm bớt sưu dịch cho dân.
Người dẫn chuyện bình thản nói: "Năm Càn Đức thứ hai, Triệu Khuông Dận ra lệnh thu toàn bộ thuế đất và thuế chuyên môn hàng năm từ các địa phương. Sau khi trừ đi chi phí địa phương, số còn lại phải chuyển hết về kinh đô, không được giữ lại.
Chính sách thuế tập trung này giúp tăng cường quyền lực trung ương, khiến các phiên trấn mất đi nền tảng kinh tế. Tuy nhiên, nó cũng tạo ra điểm yếu lâu dài, góp phần khiến nhà Kim sau này nam tiến dễ dàng."
Triệu Khuông Dận đổi sắc mặt, trầm ngâm suy nghĩ. Ông chỉ muốn hạn chế võ tướng và các phiên trấn, tưởng rằng để lại đủ chi tiêu cho địa phương là ổn, không ngờ lại gây hậu quả như vậy.
"Mọi chính sách đều có mặt lợi và hại, không thể nói cách làm này hoàn toàn x/ấu." Người dẫn chuyện nhún vai. Cô thầm lo lắng về gen di truyền của họ Triệu - có lẽ nó quá mạnh mẽ.
Rồi cô tiếp tục: "Triệu Khuông Dận coi trọng việc xây dựng thư viện. Khi mới lập quốc, ông đã thu thập sách vở từ các nước còn sót lại để làm phong phú kho tàng tri thức. Lúc đầu, Bắc Tống chỉ có hơn 12.000 cuốn sách.
Đến thời Khai Bảo, số sách trong thư viện hoàng gia đã lên tới 80.000 cuốn, đặt nền móng vững chắc cho sự hưng thịnh văn hóa sau này của nhà Tống."
"Có thể nói, trong việc quản lý đất nước, Triệu Khuông Dận đã thực hiện nhiều chính sách sáng suốt: khuyến khích nông dân trồng dâu nuôi tằm, thúc đẩy phát triển kinh tế. Những biện pháp này không chỉ hàn gắn vết thương chiến tranh suốt năm đời, mà còn tạo nên thời kỳ ổn định và phồn vinh nổi tiếng trong sử sách - gọi là 'Kiến Long chi trị'."
Triệu Khuông Dận lặng lẽ nhẩm lại bốn chữ "Kiến Long chi trị", trong lòng dâng lên cảm xúc khó tả. Cả đời ông được đúc kết trong bốn chữ này.
"Nói đến nhà Tống không thể không nhắc Yên Vân thập lục châu - vùng đất bị c/ắt nhượng từ thời Hậu Tấn. Một mặt, Triệu Khuông Dận mang trách nhiệm khôi phục lãnh thổ, cho rằng chưa thu hồi Yên Vân thì chưa thể gọi là thống nhất.
Mặt khác, ông đ/á/nh giá rất thực tế tương quan lực lượng giữa Tống và Liêu: 'Hiện nay kẻ địch mạnh nhất chính là Khiết Đan. Từ khi lập quốc đến nay, ta nên tập trung xây dựng đất nước.'
Theo đ/á/nh giá của Triệu Khuông Dận, với thực lực hiện tại, nhà Tống chưa thể đương đầu với Khiết Đan về quân sự."
Nhưng ông cũng không thụ động chờ Khiết Đan tự rối lo/ạn, hay mơ tưởng chúng sẽ tự nguyện trả lại đất đai. Thay vào đó, ông lên kế hoạch thứ ba: dùng phương thức hòa bình để thu phục Yên Vân.
Theo ghi chép trong 'Thằng Thủy Yến Đàm Lục' và 'Thạch Lâm Yến Ngữ', sau khi dẹp yên các nước phương Nam, Triệu Khuông Dận lập ra 'kho bạc phong tỏa', thu tài sản các nước về đây, đồng thời dành một phần ngân sách hàng năm để tích trữ.
Ông dự định khi kho tích đủ năm trăm vạn quan, sẽ cử sứ giả sang Liêu để chuộc lại 'vùng đất phía Bắc'. Nếu Liêu không đồng ý, sẽ dùng số tiền đó chiêu m/ộ binh lính, dùng vũ lực đoạt lại."
Người dẫn chuyện thở dài: "Dù là hoàng đế sáng lập triều đại, việc đầu tiên ông nghĩ đến là dùng tiền để thu hồi đất cũ cũng hơi quá. Có thể nói nhà Triệu có chút kế thừa, dù người kế vị sau không phải con cháu trực tiếp của Triệu Khuông Dận, nhưng cũng là hậu duệ của em trai ông, huyết thống rất gần."
Người dẫn chuyện muốn trợn mắt: "M/ua cái gì chứ? Có nhiều tiền thế, dùng để trang bị quân đội, phát triển dân sinh chẳng phải tốt hơn sao? Triệu Khuông Dận cũng có phần kỳ quặc."
"Tuy nhiên, Triệu Khuông Dận không đặt hy vọng vào lòng nhân từ của kẻ th/ù, mà còn tính đến việc dùng vũ lực, so với hậu nhân yếu kém, cũng có thể chấp nhận được."
Hán Vũ Đế thốt lên: "Cái này mà cũng gọi là chấp nhận được?" Ông nghĩ nếu đất của mình bị Hung Nô chiếm, sẽ không nghĩ đến chuyện chuộc lại mà là đoạt lại. Hỏi ý kiến Trường Bình hầu và Vô Địch Hầu của ông chưa? Nghĩ đến đã thấy tức gi/ận.
Tần Thủy Hoàng chế giễu: "Đây là trình độ của hoàng đế khai quốc đời sau sao? Bị nhà Triệu làm nh/ục, đời này coi như hết hy vọng, lần này quá mất mặt."
Ông phân trần rằng Hoa Hạ trải qua nhiều năm chiến tranh, không nên tiếp tục gây hấn, nhất là khi Liêu quốc đang hùng mạnh. Ông cảm thấy mình cũng nghĩ cho dân chúng.
Triệu Khuông Dận tự nhủ: "Hay là học theo Hán Văn Đế, hiếu chiến hơn một chút?"