Việc dời đô đến Bắc Kinh được hoàn thành dưới thời Minh Thành Tổ Chu Lệ, nhưng thực ra từ thời Chu Nguyên Chương đã có kế hoạch này. Thái tử Chu Tiêu qu/a đ/ời sau khi đi thị sát Quan Trung và Lạc Dương, nên việc dời đô thời Hồng Vũ bị hoãn lại. Mãi đến khi Chu Lệ lên ngôi, việc này mới được tiếp tục.

Trong chiếu chỉ, Chu Lệ cuối cùng chọn Bắc Kinh (khi đó gọi là Bắc Bình). Lý do là nơi đây từng là căn cứ phát tích của ông, nơi ông đã xây dựng cơ sở cai trị vững chắc suốt nhiều năm. Bắc Bình nằm ở vùng giáp ranh giữa khu nông nghiệp và du mục phương Bắc, giao thông thuận tiện, địa thế hiểm yếu. Đây vừa là trung tâm giao thương giữa người Hán và các dân tộc khác, vừa là địa bàn quân sự trọng yếu. Định đô tại đây không chỉ giúp chống lại quân Mông Cổ từ phương Bắc, kiểm soát vùng Đông Bắc mà còn dễ dàng quản lý Trung Nguyên, bảo vệ sự thống nhất đất nước.

Năm Vĩnh Lạc thứ tư, Minh Thành Tổ bắt đầu xây dựng Bắc Kinh. Đến năm thứ chín, ông sai Thượng thư Bộ Công Tống Lễ cùng nhiều người tu sửa kênh đào. Năm thứ mười ba, Bình Giang Bá Trần Tuyên đào lại kênh Thanh Giang Phụ gần Hoài An, khơi thông Đại Vận Hà vốn đã bị bỏ hoang lâu ngày. Năm thứ mười bốn, Chu Lệ chính thức hạ lệnh xây dựng Bắc Kinh. Đến năm thứ mười tám, cung điện Bắc Kinh hoàn thành. Tháng chín cùng năm, ông tuyên bố dời đô về Bắc Kinh.

Tháng giêng năm Vĩnh Lạc thứ mười chín, Chu Lệ ngự tại điện Phụng Thiên ở Bắc Kinh, ban lệnh đại xá thiên hạ. Như vậy, chính sách dời đô trọng đại đã hoàn thành.

Suốt mười bốn năm, hàng chục vạn thợ thủ công lành nghề cùng nông dân, binh lính được huy động để xây dựng. Tử Cấm Thành - công trình mất hai năm để hoàn thành - trở thành viên ngọc sáng chói giữa kinh đô mới, lưu danh sử sách.

Việc dời đô này là dấu mốc quan trọng thời Vĩnh Lạc, thể hiện tinh thần 'Thiên tử giữ biên cương, quân vương ch*t vì xã tắc'. Tinh thần ấy xuyên suốt triều Minh: Chu Lệ đặt kinh đô nơi hiểm yếu nhất để thiên tử thân chinh giữ nước, còn vị hoàng đế cuối cùng đã thực hiện trọn vẹn câu nói ấy khi tuẫn tiết theo non sông. Quả là sự đầu cuối tương ứng kỳ lạ!" - Người dẫn chuyện cảm thán.

Dưới Màn Trời, vô số người xúc động trước câu nói ấy. Lý Thế Dân cũng rung động: "Thiên tử thủ biên giới, quân vương ch*t xã tắc... Thật là khí phách vĩ đại!"

Việc năm lần chinh ph/ạt phương Bắc cùng ba lần ổn định biên cương được sử sách ca ngợi, chính là võ công của Hoàng đế Chu Lệ. Như lời tán dương: "Bắc dẹp sa mạc, Nam định biên thùy, uy đức vang xa, không thua kém Hán Cao Tổ."

Hán Cao Tổ tỏ ra không đồng tình, mong đừng so sánh như vậy.

Năm lần Bắc chinh đã đ/á/nh mạnh vào thế lực cát cứ của quý tộc Mông Cổ, trên nền tảng do Chu Nguyên Chương xây dựng, càng tăng cường quản lý vùng đất này.

Đáng tiếc là lần thứ năm Bắc tiến không đạt thành tựu lớn thì Chu Lệ lâm bệ/nh qu/a đ/ời. Dù sao, ông đã nhiều lần kh/ống ch/ế thế lực thảo nguyên, khiến họ mấy chục năm không thể bành trướng.

Mỗi lần Bắc chinh đều huy động hàng chục vạn binh sĩ, triều đình còn đồng thời xây dựng kinh đô Bắc Kinh. Những việc này lẽ ra phải hao tổn sức dân, khiến trăm họ oán than, đất nước rối lo/ạn.

Thế nhưng, trong lúc thực hiện những việc này, Chu Lệ lại còn tạo ra Vĩnh Lạc thịnh thế. Ngay cả Hán Vũ Đế cũng bị mang tiếng hiếu chiến, bị các học giả đời sau phê phán. Vậy tại sao Chu Lệ lại là ngoại lệ?

Có lẽ bởi ông đã sai Trịnh Hòa xuống biển, mang về lượng lớn bạc trắng.

Hán Vũ Đế mắt sáng lên, vô cùng hứng thú với cách ki/ếm tiền của Chu Lệ. Tần Thủy Hoàng cũng trầm tư suy ngẫm.

Việc Trịnh Hòa xuống biển Tây Dương là sự kiện hàng hải trọng đại trong lịch sử. Nhưng hôm nay chúng ta bàn về việc: Chuyến hải trình này thực sự sinh lời hay thua lỗ? Vấn đề này khiến bao người tranh cãi không dứt.

Hầu hết quan văn nhà Minh đều cho rằng hạ Tây Dương là việc thua lỗ, có hại cho triều đình nên kiên quyết ngăn cấm hoạt động hàng hải quy mô lớn.

Họ cho rằng các chuyến đi tốn kém nhân lực vật lực, mang về toàn đồ xa xỉ vô bổ, không ích quốc lợi dân. Lưu Đại Hạ từng nói: "Ba lần hộ tống Tây Dương, tiêu tốn mấy chục vạn, quân dân ch*t hàng vạn, dù có lấy được châu báu thì ích gì?"

Do sự phản đối dữ dội của quan văn, Chu Lệ sau này ít tổ chức hải trình. Đến thời Minh Hiến Tông, giới văn quan chiếm thế thượng phong. Lưu Đại Hạ còn mượn danh nghĩa vì dân, th/iêu hủy toàn bộ tư liệu về các chuyến hải trình của Trịnh Hòa.

Đến mức cùng cực là giấu kín, vẫn là đưa cho chính hắn hoặc bạn bè sử dụng đội thuyền riêng, hoặc có lẽ đ/ốt đi, như vậy chỉ có hắn biết mà thôi."

Lý Một nhún vai: "Dù sao cũng chỉ là một bề tôi, vẫn luôn để hoàng đế làm chủ."

Lưu Đại Hạ mặt đỏ tía tai, gi/ận dữ quát: "Nói nhảm! Lời lẽ mê hoặc thiên hạ!"

"Vậy việc Trịnh Hòa xuất dương Tây Dương là thua lỗ, chuyện này đúng sai thế nào?

Trong sử sách ghi chép bất nhất, ngay cả trong triều Minh cũng có kẻ bảo lỗ, người bảo lãi, tự mâu thuẫn với nhau.

Ví như Lưu Đại Hạ nhất quyết khẳng định Trịnh Hòa xuất dương là thua lỗ, nhưng học giả đời Minh sau này lại nhận định: "Hàng quý hiếm châu báu từ phương xa chất đầy kho tàng, dân nghèo nhờ m/ua b/án mà giàu có, quốc khố cũng thêm dồi dào."

Chúng ta không nên nghe họ nói gì, mà phải xem Minh Thành Tổ Chu Lệ đã làm những gì.

Thời Minh Thành Tổ, nhà Minh liên tục chinh chiến. Chu Lệ năm lần Bắc ph/ạt hao tổn nhân lực vật lực khôn lường, lại còn xây dựng Bắc Kinh, tu biên "Vĩnh Lạc Đại Điển"... Vậy tiền đâu ra? Vơ vét dân chăng? Nhưng đời Vĩnh Lạc lại được xem là thịnh thế, chứng tỏ đời sống bách tính vẫn ổn.

Điều này cho thấy Chu Lệ có ng/uồn thu khác - hợp lý nhất là từ hải trình Tây Dương của Trịnh Hòa.

Đến thời Chu Chiêm Cơ vẫn tiếp tục xuất dương mà không thiếu tiền. Nếu thực sự thua lỗ, triều Minh đã sụp đổ từ thời Chu Lệ rồi!

Trái lại, khi ngừng xuất dương, dù hoàng đế sống giản dị, không xây cung điện, không gây chiến... nhưng quốc khố lại trống rỗng. Kết quả này chẳng phải chứng minh hải trình Tây Dương có lợi sao?

Hơn nữa, bảo tàng ngày nay vẫn còn lưu giữ vàng bạc Trịnh Hòa mang về từ Tây Dương."

Danh sách chương

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Đọc tiếp

Bảng xếp hạng

Mới cập nhật

Xem thêm