Nếu muốn thưởng thức thơ Đỗ Phủ, không thể bỏ qua hai kiệt tác "Vọng Nhạc" và "Đăng Cao".
Khi viết "Vọng Nhạc", Đỗ Phủ tuy chưa từng đặt chân lên Thái Sơn nhưng tấm lòng ôm trọn giang sơn, chí khí bao la nên thơ chan chứa hào khí ngút trời. Đến khi sáng tác "Đăng Cao", ông đã mang trọng bệ/nh, sống trong nghèo khó. Lúc ấy, lo/ạn An Sử kết thúc đã bốn năm nhưng các thế lực quân phiệt vẫn tranh giành đất đai. Đỗ Phủ buộc phải rời khỏi thảo am Thành Đô - nơi ông gắn bó năm sáu năm - xuống thuyền về phương nam.
Cô đ/ộc, khổ đ/au, già yếu, bệ/nh tật, phiêu bạt vô định... Còn nỗi bi ai nào hơn thế? Thời gian trôi vô nghĩa, chí lớn không thành, nơi đất khách quê người, thân tàn m/a dại... Bài thơ thấm đẫm nỗi sầu thê lương. Khi ấy, Đỗ Phủ gánh trên vai cả nỗi đ/au dân tộc lẫn bi kịch cá nhân, để rồi viết nên thi phẩm bất hủ này - tác phẩm được tôn vinh là "Thiên cổ thất luật đệ nhất thi".
Lý Một xoa xoa cằm: "Với riêng ta, ấn tượng đầu tiên về Đỗ Phủ lại đến từ 'Xuân Vọng'. Ngôn từ bài ấy khiến người đọc sửng sốt."
"Quốc phá non sông tại/ Thành xuân thảo mộc thâm/ Cảm thời hoa tiễn lệ/ H/ận biệt điểu kinh tâm..."
Giọng Lý Một chùng xuống: "Lần đầu đọc bài thơ, ta đã rung động trước tình cảm sâu nặng ẩn trong từng câu chữ. Phải khắc khoải đến nhường nào mới viết nên những từ 'cảm thời', 'h/ận biệt' đ/au đớn thế này?"
"Dù đã quen với lối thơ khoa trương của Lý Bạch, ta vẫn thấy bồi hồi trước cảm xúc mãnh liệt trong thi phẩm này. 'Vọng Nhạc' và 'Đăng Cao' không khiến ta xúc động sâu sắc bằng 'Xuân Vọng'."
Lý Thế Dân nghe mà mí mắt gi/ật giật. Bài "Xuân Vọng" toát lên bi kịch thảm thiết - kinh thành tan hoang, cảnh tượng sao mà đ/au lòng! Đặc biệt với vị hoàng đế Đại Đường đang nghe chuyện, nước mắt suýt trào ra. Dù sao, đất nước tan tành trong thơ chính là Đại Đường của ông!
Đỗ Phủ cũng thấy bàng hoàng. Tương lai của bản thân và vận mệnh đất nước trong thơ đều thảm thương quá đỗi... Cuộc đời này liệu còn chút ánh sáng nào?
May thay, Lý Một nhanh chóng chuyển hướng: "Nhân đây, gần đây ta rất thích Lý Quy Niên. Vị 'Nhạc Thánh đời Đường' này thực ra có mối giao tình thâm giao với Đỗ Phủ. Chính Đỗ Phủ đã viết thơ tặng ông ấy."
“Thơ đâu tự nhiên mà viết hay đến thế - Chính là nhờ phong cảnh Giang Nam tươi đẹp, hoa nở đúng mùa lại được gặp người tri kỷ.”
Lý cười nói: “Dù gặp lại nhau trong cảnh người còn cảnh mất, nhưng được thấy cố nhân nơi đất khách, há chẳng phải điều may mắn sao?”
“Đến nỗi Đỗ Phủ viết về Gia Cát Lượng: 'Chưa xuất quân đã ch*t, anh hùng rơi lệ thấm áo' - câu thơ ấy cũng chẳng cần phải nổi tiếng lắm làm chi.”
Gia Cát Lượng khẽ lắc quạt, trong lòng không vui vì ý thơ tiết lộ tâm sự.
Lý mỉm cười ngâm nga: “Thực ra nhiều câu thơ quen thuộc chúng ta nghe hàng ngày, ít ai biết chính Đỗ Phủ là tác giả.”
Rồi chậm rãi đọc:
“Đôi oanh vàng hót trên liễu biếc
Cánh cò trắng vút giữa trời xanh”
“Mưa xuân đúng lúc đến
Theo gió lặng lẽ về
Tưới mát vạn vật đất trời”
“Hoa quỳ vàng ngập sân nhà họ Hoàng
Nghìn cành vạn nhánh rủ thấp
Bướm lượn vờn hoa không mỏi
Chim oanh hót líu lo trên cành”
“Đêm nay sương trắng xóa
Vầng trăng sáng cố hương”
“Gió xuân phảng phất hương cỏ
Chim én liệng trên bùn tan
Uyên ương ngủ nơi cát ấm”
“Cánh hải âu chơi vơi giữa trời
Tựa hạt bụi giữa đất trời mênh mông”
“Khúc nhạc này chỉ nên có trên trời
Mấy phen được thưởng thức nơi trần thế?”
...
Lý đọc hết bài này đến bài khác, cảm khái: “Thơ tả cảnh của Đỗ Phủ thực sự xuất thần. Thường nghe những vần thơ trầm uất của ông, giờ đọc những bài này khó tin cùng một tác giả. Nếu không đề tên, ai dám nghĩ đây là thơ Đỗ Phủ?”
“Như được thấy một phiên bản khác của ông - một Đỗ Phủ đa chiều, đầy đủ hơn. Không ai sinh ra đã 'ưu quốc ưu dân'. Dưới bóng hình vĩ đại ấy, Đỗ Phủ trước hết vẫn là một con người.”
“So với 'Tam lại, Tam biệt' nổi tiếng, tôi lại thích những bài thơ tả cảnh này hơn. Nhưng nói đến Đỗ Phủ, làm sao không nhắc đến 'Tam lại, Tam biệt'?”