“Văn nhân thời xưa phần lớn mong được ra làm quan để thỏa chí lớn, nhưng nhóm thi nhân thường không đạt được nguyện vọng. Đỗ Phủ cũng có khát vọng và chí hướng, mong được làm quan.”
“Vậy khát vọng của Đỗ Phủ là gì? Là ‘Giúp vua trở nên như Nghiêu Thuấn, khôi phục phong tục thuần hậu’.”
“Trong tác phẩm tự thuật rõ ràng nhất về lý tưởng đời mình là bài 《Tặng Vi Trái Thừa Trượng hai mươi hai vận》, ông viết câu thơ này khi Đường Huyền Tông hạ chiếu cho người tài vào kinh ứng thí. Đỗ Phủ trượt khoa thi, nỗi đ/au trong lòng khó tả. Ông viết bài thơ này để cáo biệt vị quan đ/á/nh giá cao mình, đồng thời tự tiến cử, bày tỏ tài năng và khát vọng, than thở đường hoạn lộ trắc trở cùng cuộc sống bế tắc, đồng thời phê phán hiện thực đen tối.”
“Bài thơ đại ý: Tôi, Đỗ Phủ, từ nhỏ đã nổi tiếng tài hoa, đọc sách vạn cuốn, hạ bút như có thần. Thơ ca có thể sánh cùng Dương Hùng, Tào Thực, được danh nhân kết giao. Tôi tưởng mình sớm thành danh, phò tá hoàng đế tái hiện xã hội phong thuần thời Nghiêu Thuấn, nào ngờ hiện thực tàn khốc.
Trước kia khi chiếu chỉ ban ra, tôi tưởng như cánh chim sắp bay cao, nào ngờ rơi vào hư không. Khoa cử triều đình trở thành trò cười.
Ngài luôn ngâm thơ tôi, khen hay, nhưng tôi khiến ngài thất vọng. Dù vậy, tôi không từ bỏ khát vọng, vẫn muốn thử sức lần nữa.
Giờ từ giã kinh thành, nhớ ơn ngài, dù lòng không muốn nhưng đành ra đi. Vẫn mơ được như chim hải âu lượn trên biển cả, chứ không a tòng nịnh thần để thăng tiến.”
Lý chợt khẽ đọc bài thơ, cảm thán: “Vậy đây chính là bản sơ yếu lý lịch bằng thơ ca thời cổ đại sao? Thật tuyệt vời!” X/á/c nhận qua ánh mắt, tự mình không thể viết được ý tứ sâu sắc ấy.
Đỗ Phủ lặng im. Ở tuổi trung niên, con đường làm quan vẫn chẳng suôn sẻ. Thuở trẻ, ông không thể ngờ mình sẽ rơi vào cảnh ngộ này.
Đỗ Phủ xứng danh thiên tài, từ nhỏ đã là ‘con nhà người ta’. Bảy tuổi đã làm thơ, kiêu hãnh và tự tin, tràn đầy nhiệt huyết báo quốc. Ông tin tài năng mình sẽ tỏa sáng, dù thi trượt khoa cử đầu tiên vẫn không nản chí, du ngoạn bốn phương, kết giao bạn hữu, lòng đầy tin tưởng vào tương lai...
Giờ mới biết rằng, đây mới là khởi đầu của một đời cực khổ.
Anh ta tự giễu cợt bản thân với nụ cười chua chát, dường như bị tổn thương sâu sắc.
Lý Bạch vỗ vai anh một cái, thấu hiểu nỗi lòng phức tạp ấy.
Người dẫn chuyện từng không thích "Ba lại ba đừng" dù đó là kiệt tác lừng danh. Những vần thơ ấy quá đ/au thương - đời đã khốn khó, cớ chi lại tự chuốc lấy khổ đ/au? Ấy thế mà Đỗ Phủ vẫn chủ động ôm lấy nỗi đ/au ấy.
Người dẫn chuyện thở dài, chậm rãi giải thích: "Ba lại ba đừng" là tuyệt tác tiêu biểu của Đỗ Phủ, được tôn vinh là "thiên sử thi" làm sáng tỏ lịch sử thơ ca. Tác phẩm ra đời trong thời lo/ạn An Sử khi chiến tranh tàn phá đất nước.
Giữa thời đại binh đ/ao khôn cùng, những năm tháng bắt lính triền miên khiến tiếng than khóc vang trời, người ch*t đói đầy đường. "Ba lại" từ góc nhìn quan lại vạch trần nguyên nhân gây thảm họa bắt lính, còn "Ba đừng" từ nạn nhân khắc họa nỗi thống khổ cùng cực.
Trong thơ, Đỗ Phủ dựng lên từng mảng đời tan nát: già cả trốn chui trốn nhủi vẫn bị lôi đi lính ("Lão ông vượt tường trốn"), trẻ mồ côi phải cầm giáo ("Đứa trẻ còn bú mẹ"), cụ già tám mươi tuổi nằm phơi xươ/ng ngoài đồng ("Lão nằm đường gối đất, áo đơn cuối năm rét"). Đám cưới thành tang tóc ("Chiếu cưới chưa ấm chỗ, buổi sáng đã chia ly"), người già không nơi nương tựa vẫn bị đẩy ra trận ("Ngoảnh lại không người đưa, đi chỉ một thân côi"). Những hình ảnh ấy khiến ai đọc cũng phải rùng mình thảng thốt.
Người dẫn chuyện lắc đầu bật cười: "Ba lại ba đừng" đúng là áng thơ nặng trĩu, khiến người ta chỉ muốn đùa cợt cho vơi bớt sầu thương."