Đỗ Phủ hé môi, cảm xúc có phần trùng xuống.
"Thái Bạch huynh, ngươi nói bệ hạ..." - giọng ông ngập ngừng - "còn có thể thay đổi được không?"
Không chỉ Đỗ Phủ phân vân, rất nhiều người dân Đại Đường cũng đang băn khoăn. Trước khi màn trời xuất hiện, họ tưởng rằng đang có một vị minh quân thánh chúa, người đưa Đại Đường đến phồn vinh cường thịnh, mở ra thời kỳ huy hoàng.
Họ ngỡ đây là một "Đường Thái Tông" thứ hai, ca tụng ngợi khen, kính yêu hết lòng. Biết bao hiền tài khát khao ra giúp nước, mong đền đáp triều đình, cùng vị "Thái Tông" này viết nên giai thoại quân thần.
Đáng lẽ đây phải là thời đại đáng mơ ước, là thịnh thế được ngàn năm sau ca ngợi. Nhưng cuối cùng, chính vị thánh quân trong lòng họ đã h/ủy ho/ại tất cả - tan vỡ mọi kỳ vọng và mộng tưởng.
"Gây nên quân Nghiêu Thuấn bên trên, dùng lại phong tục thuần" - Đỗ Phủ cười gượng, như chẳng thể nào tin nổi.
Dù mọi chuyện chưa xảy ra, lo/ạn An Sử có thể ngăn chặn sớm, nhưng liệu họ còn dám tin tưởng hoàng đế của mình?
[Lý Một không biết mình đã làm tổn thương bao nhiêu tâm h/ồn nhân kiệt thời Đường Huyền Tông.
Nàng thổ lộ nỗi lòng: "Không biết bao người lần đầu đọc 'Ba biệt' mà không sao đọc trọn vẹn, riêng ta thì không thể." Nàng vốn dễ xúc động, nên đã né tránh 'Ba biệt' rất lâu.
"'Ba biệt' đều sáng tác thời lo/ạn An Sử - giai đoạn thay đổi phong cách của Đỗ Phủ. Trước 35 tuổi, ông đọc sách du ngoạn khi Khai Nguyên thịnh trị, kinh tế khá giả, có lẽ là thời kỳ khoái hoạt nhất đời.
Thơ ông thời kỳ đầu cũng như nhiều thi nhân Thịnh Đường - ngang nhiên tự tin, như lời đã nói trước. Thơ tiền kỳ và hậu kỳ khác biệt đến mức tưởng chừng của hai người khác nhau.
Nhưng điều vĩ đại ở Đỗ Phủ là ông không chỉ thấy thịnh trị, mà còn thấu cảm bóng tối phía sau, dám nhìn thẳng chứ không lảng tránh."
"Đáng quý hơn nữa, khi đời ông lao dốc, trong cảnh khốn cùng ông không oán trời, mà thấu hiểu nỗi khổ dân đen, càng nung nấu hy vọng lớn lao."
"Năm Thiên Bảo thứ 14, đêm trước lo/ạn An Sử, triều đình phong cho Đỗ Phủ chức Hà Tây úy - quan nhỏ. Ông không nhận, bị đổi làm Hữu vệ soái phủ Binh Tào tham quân.
Lúc ấy Đỗ Phủ 44 tuổi, lưu lạc Trường An hơn chục năm vô thành tựu. Vì kế sinh nhai, ông đành nhận chức quan vô dụng này.
Vừa khi đời ông hơi khởi sắc, tai ương ập đến. Về Phụng Tiên đón vợ con, vừa bước vào nhà đã nghe tiếng khóc - con trai nhỏ đã ch*t đói.
Nỗi đ/au mất con cộng với mười năm Trường An và những gì chứng kiến dọc đường, ông viết 'Tự kinh phó Phụng Tiên vịnh hoài ngũ bách tự':
'X/ấu hổ thay làm cha
Không nuôi nổi con thơ
Chẳng hay quan được miễn thuế
Dân đen vẫn khổ sở'
Lòng ông hổ thẹn khôn ng/uôi - làm cha mà không nuôi được con!
Ai ngờ năm nay mùa màng thu hoạch tưởng chừng khá, thế mà dân nghèo vẫn không có cơm ăn!
Ta tuy là quan nhỏ, không phải đi lính, cũng chưa đóng thuế, mà vẫn gặp cảnh bi đát như vậy. Vậy dân thường phải sống sao qua ngày?
Nghĩ đến nông dân mất ruộng là mất hết tài sản, nghĩ đến binh lính nơi biên ải lại thiếu ăn thiếu mặc...
Người dẫn chuyện thở dài: "Đỗ Phủ trong thơ từng viết chính ông làm quan mà con trai còn ch*t đói, huống chi dân thường phải sống khổ cực thế nào?"
"Đúng là Đỗ Phủ đấy! Dù bản thân khó khăn nhưng ông luôn nghĩ đến nỗi khổ của muôn dân."
Người dẫn chuyện thở dài yếu ớt: "Dân chúng thời ấy đã khổ thế, đến lo/ạn An Sử lại càng khốn đốn biết bao!"
"Sau nỗi đ/au mất con, Đỗ Phủ lại gặp bi kịch lớn hơn - lo/ạn An Sử bùng phát. Chính thời điểm này ông viết bài Xuân Vọng."
"Trong thời lo/ạn An Sử, ông đi qua nhiều nơi, chứng kiến vô vàn cảnh đời, từ đó sáng tác bộ ba bài thơ Tam Lại và Tam Biệt."
"Đáng chú ý là dù phong cách thơ thay đổi sau lo/ạn An Sử, nhưng trước đó ông đã viết những tác phẩm mang hơi hướng tương tự." Câu này đã phần nào tổng kết sự chuyển biến trong thơ văn Đỗ Phủ.
"Năm Thiên Bảo thứ mười, Đỗ Phủ chứng kiến cảnh triều đình bắt lính đ/á/nh Nam Chiếu, viết nên Binh Xa Hành:
'Xe lăn ầm ĩ, ngựa hí vang
Người đi cung tên đeo khắp mình
Vợ con níu áo tiễn chồng
Bụi m/ù che khuất cầu Hàm Dương
Tiếng khóc thảm thiết thấu tầng mây...'"
Người dẫn chuyện xúc động nói: "Từ năm Thiên Bảo, triều Đường liên tục gây chiến với các dân tộc Tây Bắc, Tây Nam. Chiến tranh triền miên không chỉ gây họa cho dân biên giới, mà còn khiến dân Trung Nguyên khốn đốn."
"Trong Tư Trị Thông Giám có chép: Tháng tư năm Thiên Bảo thứ mười, Tiết Độ Sứ Tiên Vu Trọng Thông đ/á/nh Nam Chiếu thảm bại ở Lưu Nam."
Miệng nói đại bại quân địch, nhưng người dẫn chuyện lại cười lạnh: "Sử sách ghi rõ quân Đường thua to, sáu vạn lính ch*t trận. Thế mà Dương Quốc Trung dấu nhẹm tin thua, lại tâu vua là thắng trận!"
"Sử chép: 'Người nghe Vân Nam đ/ộc địa đều sợ, lính mười phần ch*t tám chín. Quan lại phái người đi bắt lính, trói giải tới doanh trại. Kẻ ra đi oán h/ận, người tiễn đưa khóc than, tiếng khóc rền trời đất.'"
Người dẫn chuyện nghẹn ngào: "Chiến dịch này thực là sinh ly tử biệt!"
"Bên đường có kẻ hỏi người đi
Người đi thưa rằng:
Mười lăm tuổi ra Bắc giữ thành
Bốn mươi tuổi lại đi Tây khẩn hoang
Lúc đi trẻ, lý trưởng bịt khăn
Về đầu bạc lại ra biên ải
M/áu lính biên đã thành sông
Mà vua tham đất chưa thôi!"
Ngươi chẳng từng nghe nói sao? Hướng đông Hoa Sơn hai trăm dặm đất châu, ngàn xóm vạn làng cỏ dại mọc um tùm. Đất cày vốn màu mỡ nay cũng thành hoang vu. Dẫu có phụ nữ khỏe mạnh ra sức cày bừa, hoa màu trong ruộng vẫn xiêu vẹo chẳng thành hàng. Lính tráng tuy có thể chịu đựng gian khổ, nhưng bị bắt đi như gà chó, nào có khác chi?
Thế nhưng trai tráng đi lính đâu dám thở than, năm nay quan binh phía tây lại muốn tiếp tục đ/á/nh nhau không ngừng nghỉ. Quan huyện thì thúc giục thu thuế, nhưng thuế má lấy đâu ra mà nộp?
“Giờ đây mới biết sinh con trai là khổ, trái lại sinh con gái tốt hơn. Con gái còn gả được cho hàng xóm, con trai chỉ phơi xươ/ng nơi chiến trường.
Trăm họ đều nói sinh con trai chẳng bằng con gái, con gái còn được về nhà chồng gần, con trai chỉ có nắm xươ/ng tàn nơi sa trường.”
Lời thơ từng câu từng chữ vang lên:
“Người chẳng thấy chốn Thanh Hải đầu kia, xươ/ng trắng chất đống từ xưa chẳng ai thu.
Nơi ấy q/uỷ mới oán hờn q/uỷ cũ khóc, mưa dầm gió bấc rền rĩ thảm sầu.”
Nhìn cảnh tượng ấy mà kinh hãi, nghe lời ca ấy mà xót xa.
Đỗ Phủ đành thở dài nuốt gi/ận, nhưng nỗi uất ức trong lòng chẳng thể ng/uôi ngoai, chỉ thấy lòng ngập tràn bi ai.
“Kẻ qua đường bên lề” – nào có ai qua đường, kỳ thực chính là Đỗ Phủ. Ông tận mắt chứng kiến cảnh thương tâm, tai nghe lời ai oán, lòng đ/au như c/ắt. Lý Một chậm rãi nói: “Tiếc thay lúc ấy chẳng ai để ý thơ Đỗ Phủ. Dẫu có thấy cũng chẳng xem trọng, nào đủ thay đổi điều gì.”
Nàng buồn bã tiếp lời: “Bài thơ Binh Xa Hành này được đời sau tôn vinh là kiệt tác của Đỗ Phủ. Không những vạch trần sự hiếu chiến của Đường Huyền Tông – những năm liên tiếp chinh chiến khiến dân chúng lầm than – mà còn sáng tạo hình thức mới, không bó buộc trong khuôn khổ nhạc phủ cũ. Về ý tứ lẫn nghệ thuật đều đạt đến đỉnh cao.” Nhưng tất cả đều vô ích trước thực tại đương thời.
“Thơ hay cũng chẳng ích gì.” Đỗ Phủ chua xót nói. “Người trên chẳng thấu, dân đen vẫn khổ. Ta ngoài việc ghi chép, còn làm được gì nữa?”
“Sao bảo ghi chép lịch sử là vô dụng?” Lý Bạch uống cạn bình rư/ợu, bỗng đ/ập tay xuống bàn: “Tử Mỹ à, ngươi cứ viết thơ lưu truyền hậu thế, ắt có ý nghĩa!”
Lịch sử nào phải vô nghĩa?
“Thơ Đỗ Phủ đương thời chẳng mấy ai hay, nhưng hậu thế lại tôn vinh. Đời này qu/a đ/ời khác, người người đều đọc thơ ông.” Lý Một ngừng giây lát. “Chúng ta không tán dương khổ đ/au, nhưng phải ghi nhớ để không lặp lại vết xe đổ.”
Nàng tiếp tục: “Về sau, Đường Huyền Tông càng hiếu chiến, bất chấp sinh linh. Đỗ Phủ viết tiếp Chín bài Biên chinh. Khi lo/ạn An Sử n/ổ ra, ông lại sáng tác Năm bài Biên chinh sau.
Chín bài Biên chinh trước mượn lời người lính kể nỗi khổ biên ải. Năm bài Biên chinh sau lại dùng góc nhìn binh sĩ trốn về từ Phạm Dương, phản ánh chân thực thảm họa lo/ạn An Sử.”
Đại gia có thể tự mình đọc vừa nghe vừa cảm nhận."
"Câu nói 'Bắt người trước hết phải bắt ngựa, bắt giặc trước hết bắt vua' vốn xuất phát từ vùng biên cương xa xôi. Nhưng so với câu này, ta lại thích bốn câu thơ sau hơn:
'Gi*t người cũng có hạn
Liệt quốc tự có cương
Cẩu có thể trị xâm lăng
Há tại gi*t nhiều thương?'"
Người dẫn chuyện cảm thán: "Xây dựng quân đội hùng mạnh là để bảo vệ quốc gia, không phải để tàn sát. Đánh trận chỉ vì mục đích gi*t chóc khiến trăm họ lầm than thì có đáng gì?" Chiến tranh chỉ có ý nghĩa khi giúp đất nước cường thịnh và dân chúng ấm no, chứ những cuộc chiến vô nghĩa chỉ khiến nhân dân thêm khổ sở.
Người dẫn chuyện thở dài: "Đọc những vần thơ này đã thấy đ/au lòng, nghĩ đến cảnh 'ba lại ba đừng' lại càng thêm bức bối. Thơ Đỗ Phủ luôn khiến người đọc xúc động và tự vấn lương tâm."
Đỗ Phủ khẽ mỉm cười, cảm thấy có chút an ủi.
"Khi Đỗ Phủ nhìn khắp bốn phương, thấy đất nước suy tàn, non sông tiêu điều, nhân dân lầm than - tất cả đều được thể hiện tinh tế trong thơ ông. Có thể nói ông vừa là người trong cuộc vừa là nhân chứng cho nỗi thống khổ của dân chúng. Dù những sự kiện trong thơ không trực tiếp xảy ra với ông như cảnh bắt lính, chia ly tân lang, nhưng tấm lòng ông luôn hướng về những con người bất hạnh ấy, cùng đ/au nỗi đ/au của họ."
"Thơ Đỗ Phủ chứa đựng tình yêu dân và lòng ái quốc sâu sắc, được thể hiện qua ngòi bút hiện thực. Trong 'Ba lại' 'Ba đừng', tinh thần hiện thực đã tỏa ánh sáng nhân văn rạng ngời. Đó chính là vẻ đẹp bi tráng tỏa ra từ ngòi bút hiện thực vạn trượng hào quang của Đỗ Phủ."
"Nghĩ lại, có lẽ câu thơ hay nhất thể hiện tấm lòng Đỗ Phủ vẫn là:
'An đắc quảng hạ thiên vạn gian
Đại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan
Phong vũ bất động an như sơn
Ô hô! Hà thời nhãn tiền đột ngột hiện thử ốc
Ngô lư đ/ộc phá thụ đống tử diệc túc!'
Người dẫn chuyện bật cười cảm khái: "Ngày trước phải học thuộc bài này trong trường, ta từng oán h/ận vì những chữ khó nhằn. Giờ thì lại mừng vì được sớm tiếp cận áng thơ này. Dù vậy, nếu được chọn lại - ta vẫn không muốn học thuộc đâu!"
Đỗ Phủ nghe vậy không nhịn được cười.
————————
Chúc mừng năm mới 2024! Kính chúc mọi người bình an vui vẻ, vạn sự như ý.
PS: Người làm thơ không viết về các thi nhân thì khác nào qua bảo tàng mà không vào - uổng phí lắm thay! Nhưng viết nhiều lại sợ bị chê dài dòng, nên chỉ dám trích vài câu nổi tiếng cùng đôi dòng cảm nhận. Có còn hơn không vậy!
Cảm ơn các đ/ộc giả đã ủng hộ từ 2023-12-28 đến 2023-12-30. Đặc biệt cảm ơn:
- Lam Án: 89 bình luận
- Ân: 20 bình luận
- Ngô Vương: 1 bình luận
Xin trân trọng cảm tạ sự ủng hộ của mọi người, tôi sẽ tiếp tục cố gắng!