Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị được xem là ba nhà thơ lớn đời Đường. Nhắc đến việc xếp hạng này dễ gây tranh cãi, người dẫn chuyện dường như đã trích dẫn và đề cử nhiều ý kiến, nhưng cô ấy vẫn rất thích thơ Bạch Cư Dị.
Thơ của Bạch Cư Dị không thực sự thân thiện với người mới học vì độ dài, nhưng điểm hay nằm ở ngôn ngữ giản dị, dễ hiểu, giúp người đọc dễ tiếp cận. Người dẫn chuyện nhíu mày một lúc rồi bật cười, có chút ngượng ngùng.
Ví dụ, nếu cần học thuộc lòng, bạn sẽ gh/ét những bài như 'Trường h/ận ca' hay 'Tỳ bà hành'. Dù sao 'Tĩnh dạ tứ' cũng ngắn gọn dễ nhớ hơn. Những bài trường thiên của Bạch Cư Dị cũng không được học sinh ưa chuộng. Người dẫn chuyện buông lời phàn nàn của một học sinh.
Nhưng, cô chuyển đề tài, thơ Bạch Cư Dị rất phù hợp để thưởng thức bình thường. Nó gần gũi, không như những nhà thơ thích dùng điển tích đến mức phải tốn thời gian tra c/ứu. Đúng vậy, tôi đang nói về Tân Khí Tật - bậc thầy dùng điển tích.
Người dẫn chuyện phì cười: Nhà thơ đời Tống đặc biệt thích dùng điển tích trong thơ, đúng kiểu không điển tích không vui. Những tên tuổi như Tô Thức, Âu Dương Tu, Lý Thanh Chiếu - mở bất kỳ bài thơ nào cũng thấy điển tích. Nhưng so với Tân Khí Tật, họ chỉ là muối bỏ bể.
Tân Khí Tật dùng điển tích đến mức đi/ên cuồ/ng. Một bài thơ của ông có thể mỗi câu đều chứa điển tích, thậm chí một câu dùng nhiều điển. Như bài 'Vĩnh gặp nhạc. Kinh Khẩu Bắc cổ đình hoài cổ' dùng 5 điển tích về Tôn Quyền, Lưu Dụ, Lưu Nghĩa Long, Phật Ly, Liêm Pha - ai ngờ bài này chỉ có 128 chữ!
Đây chưa phải là bài dùng nhiều điển tích nhất của ông. Có bài lên tới 11 điển tích - thật quá đáng! Bất kỳ ai đọc hiểu đều phải oán h/ận ông ta. Người dẫn chuyện than phiền.
Tân Khí Tật xoa mũi tự nhủ: Sao chứ? Dùng điển tích là cần thiết chứ đâu phải vô tội vạ. Hậu thế chắc chắn sẽ hiểu, phải không?
Dù vậy, người dẫn chuyện nói công bằng: Việc Tân Khí Tật dùng nhiều điển tích chính là điểm đặc sắc trong ngôn ngữ thơ ông. Dùng điển tích không khéo sẽ khiến thơ khô cứng, nhưng ông luôn dùng chính x/á/c, tự nhiên, tạo cảm giác trôi chảy. Thơ ông tuy đọc hơi khó nhưng vẫn đầy đủ tinh túy, rất đáng thưởng thức.
Bạch Cư Dị là nhà thơ khác biệt. Thời xưa tỷ lệ biết chữ cực thấp, tác phẩm thường chỉ dành cho giới có học. Dân thường m/ù chữ làm sao hiểu nổi văn chương trau chuốt? Bạch Cư Dị đã viết thơ dễ hiểu cho họ.
Bạn đã nghe thành ngữ 'Lão bà có thể hiểu' chưa? Từ 'Lãnh Trai Dạ Thoại' ghi lại: Mỗi khi làm thơ xong, Bạch Cư Dị đều đọc cho một bà lão nghe. Bà không hiểu thì ông sửa đến khi bà hiểu. Nếu bà hiểu, ông mới hài lòng và cho truyền tụng.
Bạch Cư Dị quan niệm rằng văn chương phải viết cho đại chúng. Nếu tác phẩm không thể khiến mọi người hiểu được, dù có trau chuốt hoa mỹ đến đâu cũng trở nên vô nghĩa.
Vì thế, thơ của ông luôn giản dị, gần gũi mà đậm chất nhân văn - đây chính là nét đặc trưng nổi bật nhất trong thi phẩm của Bạch Cư Dị.
Như những câu thơ:
"Cỏ non nguyên thượng địa,
Một năm khô héo đi.
Lửa đồng th/iêu chẳng hết,
Gió xuân thổi lại mọc."
"Tháng tư trần gian hương sắp tận,
Núi chùa đào mới nở đầy cành."
"Chiều tuyết muộn màng,
Cùng uống chén rư/ợu không?"
"Chu Công sợ tiếng lời đồn đại,
Vương Mãng khiêm nhường chẳng đoạt ngôi.
Giả sử xưa kia ch*t sớm thế,
Một đời thật giả biết tỏ tường."
Người dẫn chuyện ngâm nga vài bài thơ rồi mỉm cười: "Thấy không? Tất cả đều giản dị dễ hiểu. Thơ Bạch Cư Dị không dùng điển tích khó hiểu, chỉ cần đọc mặt chữ đã cảm nhận được ý tứ, toát lên vẻ mộc mạc gần gũi."
Người đời bảo thơ Bạch Cư Dị viết cho dân chúng - quả không sai. Như tuyết xuân tuy đẹp nhưng cánh đồng lúa chín cũng không thể thiếu.
So với trường phái lãng mạn khó hiểu, thơ ông giản dị mà sâu sắc, dễ đọc mà vẫn giữ được vẻ đẹp thi ca. Điều kỳ tài của Bạch Cư Dị chính là kết hợp nhuần nhuyễn giữa bình dân và tao nhã, dung hòa giữa thực tế và nghệ thuật."
Bạch Cư Dị vui mừng khôn xiết, còn Nguyên Chẩn - bạn ông - lại càng phấn khích hơn. Nguyên Chẩn vỗ vai Bạch Cư Dị: "Danh hiệu đệ tam đại thi nhân nghe chưa đủ oai phong! Lạc Thiên thấy thế nào?"
Bạch Cư Dị nín cười đáp: "Ta đã cố gắng lắm rồi." Vượt qua Lý Bạch và Đỗ Phủ ư? Đó là hai ngọn núi chọc trời!
Bạch Cư Dị quay sang nói đùa: "Hay ngươi thử sức xem?"
Nguyên Chẩn gi/ật mình: "Thử một lần là tiêu tùng mất!"
Hai người bạn nhìn nhau cười. Nguyên Chẩn - người đã phát huy phong cách thơ Đỗ Phủ - và Bạch Cư Dị đều hiểu rõ: họ sẵn sàng tôn vinh hai bậc tiền bối. Nhớ lại Lý Bạch từng làm rung chuyển Giang Nam mấy chục năm trước mà nay vẫn được sùng bái... Hai người gật đầu: Làm đệ tam cũng tốt lắm rồi!
Người dẫn chuyện lại đọc tiếp:
"Cô Sơn bắc, Giả Đình tây,
Mặt nước phẳng, mây thấp trời quê.
Mấy chỗ oanh tranh cây ấm áp,
Nhà ai én lượn đón xuân về.
Hoa tàn dần mê hoa mắt người,
Cỏ non chưa vết ngựa qua chơi.
Thích nhất hồ đông chưa thỏa bước,
Bờ dương cát trắng dưới bóng trời."
Rồi ông thong thả bình: "Thơ tả cảnh của Bạch Cư Dị quả là tuyệt tác! Dùng từ đơn giản mà dệt nên bức tranh tinh tế. Bài này từng được đưa vào sách giáo khoa, rất dễ hiểu phải không?"
Hàng triệu người dân gật đầu tán thưởng. Lần đầu tiên họ cảm nhận trọn vẹn ý thơ! Thứ văn chương cao quý ấy... hóa ra họ cũng thấu hiểu được!
Một cảm xúc lạ kỳ dâng trào trong lòng họ - lòng biết ơn với Màn Trời, với Bạch Cư Dị. Màn Trời mở ra thế giới mới lạ, còn vị thi nhân này... đang viết cho chính họ, những con người bình dị. Chắc hẳn ông phải là vị quan tốt bụng lắm!
Dân chúng vốn dĩ chất phác, ai đối tốt với họ thì họ sẽ kính yêu người đó.
【“Thơ của Bạch Cư Dị có rất nhiều bài hay, nhưng tôi nhớ khi lên lớp chỉ học một bài của ông mà khiến người đọc cảm thấy rối bời, đáng để xem qua.”
“Không biết bao nhiêu người đã đọc 《Quan Ngải Mạch》: Nhà nông tháng năm nhàn rỗi, người lại vội vã ngược xuôi. Đêm qua gió nam thổi mạnh, lúa mạch phủ vàng đồng nội.
Tháng năm bận rộn mùa màng, phụ nữ dắt trẻ ra đồng, mang cơm nước cho trai tráng đang gặt hái.”
“Trời nóng như th/iêu như đ/ốt, lưng c/òng dưới nắng chói chang, dù mệt lả vẫn không nghỉ, chỉ tiếc ngày hè dài thêm.”
Lý Nhất Tâm bùi ngùi: “Nông dân khổ cực quá!” Ai muốn làm việc dưới cái nắng gay gắt ấy? Chẳng qua vì miếng cơm manh áo ép buộc mà thôi.
“Lại thấy người đàn bà nghèo, ôm con đứng bên đường, tay phải nhặt lúa rơi, tay trái đeo giỏ không.”
“Sao người phụ nữ phải ôm con xách giỏ, khổ sở nhặt từng hạt lúa rơi? Vì thuế má tận thu, nhặt chút ấy cho đỡ đói.”
Người dẫn chuyện xót xa: “Thuế khóa chồng chất bóc l/ột, dân chúng không chịu nổi. Đàn ông dù nắng lửa cũng phải ra đồng mong thu hoạch khá hơn, đàn bà ôm con nhặt lúa rơi chỉ để sống qua ngày.”
Người dẫn chuyện không nhịn được thốt lên: “Triều đình thối nát, quan lại vô lương tâm!”】
Từ hoàng đế đến bá quan văn võ nhà Đường, ai nấy đều lòng nặng trĩu. Liệu đây có phải chỉ là cảnh cá biệt?
【“Nay ta hưởng bổng lộc, chẳng từng nuôi tằm dệt vải. Lương tháng ba trăm thạch, đến cuối năm còn dư. Nghĩ đến đây thẹn lòng, suốt đời không thể quên.”
Bạch Cư Dị cũng tự hổ thẹn. Từ nỗi khổ nông dân, ông liên tưởng đến cuộc sống an nhàn của mình, lòng day dứt không yên.
Ông đặt sinh hoạt của nông dân và quan lại triều đình lên bàn cân, hy vọng kẻ cầm quyền sẽ thay đổi. Câu kết “Nghĩ đến đây thẹn lòng, suốt đời không thể quên” chính là tinh túy của bài thơ, cho thấy lương tâm của một vị quan biết xót thương dân. Bài thơ này tuy không nổi như 《Trường H/ận Ca》 hay 《Tỳ Bà Hành》, nhưng khiến người ta tỉnh ngộ, xứng đáng được ngẫm nghĩ.”】
“Bài 《Quan Ngải Mạch》 thật đáng trân trọng.” Lý Thế Dân trầm mặc. Dân chúng Đại Đường đã khổ cực đến vậy sao? Vương triều chưa tới hồi mạt vận mà đã thế ư?
Ông chợt hiểu ra lời Màn Trời: “Dân chỉ mong sống sót, chứ đâu quan tâm sống tốt”. Khi sinh tồn còn khó bảo đảm, lấy đâu tâm trí nghĩ đến chuyện khác?
Lý Thế Dân thấm thía: “Trẫm phải bảo vệ bách tính dưới trướng, không để họ lâm vào cảnh này.”
【“Bạch Cư Dị giỏi dùng thơ phúng dụ, ông muốn ‘Kể nỗi khổ dân đen, mong tới tai thiên tử’. Nhiều tác phẩm của ông vạch trần xã hội đen tối, như 《Quan Ngải Mạch》 hay 《B/án Than Ông》.”
Lý Nhất Tâm chua xót: “《B/án Than Ông》 kể về cụ già b/án than giữa trời rét buốt, khổ sở ki/ếm sống nhưng chẳng những không được trả công, ngược lại bị cư/ớp đoạt thành quả.”
Lý lạnh lẽo cười: "Mọi người đều biết sau lo/ạn An Sử, triều Đường bắt đầu suy yếu. Bài thơ này được Bạch Cư Dị viết vào niên hiệu Nguyên Hòa, khi vua Đường Hiến Tông lúc đầu còn chăm lo việc nước nhưng sau lại trọng dụng thái giám, khiến bọn họ lộng quyền.
Chẳng hạn khi m/ua hàng hóa, bọn thái giám thường ép giá rẻ mạt, thậm chí không trả tiền khiến dân chúng khốn khổ. Bạch Cư Dị viết bài thơ này để bày tỏ sự đồng cảm với nhân dân và nỗi bất bình trước sự t/àn b/ạo của bọn thái giám."
Lý thở dài, giọng bình thản tiếp tục: "Ông lão b/án than ngày ngày lên núi đốn củi, nhuốm đầy bụi đất. Khói lửa quanh năm khiến mặt mũi không còn nhận ra, tóc bạc phơ, ngón tay đen kịt. Qua đó ta thấy được cuộc sống khốn khó đã biến dạng con người đến thế nào."
"Bạch Cư Dị hỏi tiền b/án than dùng làm gì? Ông lão đáp: 'M/ua áo che thân, m/ua gạo nuôi miệng'. Dù áo manh quần đơn giữa mùa đông, ông vẫn mong trời lạnh hơn để b/án được giá. Nghe mà chua xót thay cho kiếp người cơ cực."
"Giữa cảnh khốn cùng ấy lại gặp tai ương bất ngờ. Hai tên thái giám cưỡi ngựa đến, hống hách tuyên bố phụng mệnh vua, gi/ật lấy cả xe than hơn ngàn cân mà chỉ trả bằng nửa tấm vải đỏ với một trượng lụa."
Lý ngậm ngùi: "Đối với ông lão, đó là tin sét đ/á/nh. Giá b/án rẻ mạt không đủ giúp ông qua mùa đông khắc nghiệt. Gọi là m/ua b/án nhưng thực chất là cư/ớp đoạt. Không than b/án, ông lão biết sống sao đây?"
"Bài thơ kết thúc đột ngột, không lời kết luận hay châm biếm. Nhưng chính sự dở dang ấy lại khiến người đọc suy ngẫm khôn ng/uôi."
Lý kết luận: "Một lão nông nghèo khổ, tuổi già vẫn phải vật lộn ki/ếm sống qua ngày. Ngay cả cơ hội nhỏ nhoi ấy cũng bị tước đoạt. Thật đúng là 'gió dập sóng dồi chọn người khốn khó'. Bài thơ của Bạch Cư Dị đã khắc họa điều này thật sâu sắc."