Dù là "Quan Ngải Mạch" hay "B/án Than Ông", thơ ông đều giản dị dễ hiểu, khiến lòng người xót xa. Đây chính là thơ Bạch Cư Dị viết cho dân chúng.
Và thơ của ông cũng là viết để dân chúng đọc được.
Người dẫn chuyện chậm rãi nói: "Lý do khiến Bạch Cư Dị trở thành thi nhân vĩ đại thứ ba của triều Đường sau Lý Bạch và Đỗ Phủ, theo tôi, chính nằm ở điều căn bản này."
Một thi nhân nguyện viết thơ cho dân chúng hiểu, dám lên tiếng vì dân. Ông xứng đáng được gọi là vĩ đại.
Bạch Cư Dị thở dài. Dù thơ ông truyền khắp Giang Nam Bắc, vẫn chẳng đến được trái tim hoàng đế.
Hỡi Thịnh Đường, bao giờ người mới tỉnh ngộ?
"So với đa số thi nhân, đường hoạn lộ của Bạch Cư Dị không đến nỗi tệ. Ông từng làm Thứ sử Hàng Châu, Tô Châu, rồi Thị lang Bộ Hình. Thứ sử đã là chức cao, mà Thị lang là chức thứ nhì trong Lục bộ - đủ gọi là bậc cao quan."
"Nhưng ông vẫn không thay đổi được gì." Khi hoàng đế chẳng phải minh quân, dù làm quan thanh liêm, viết thơ lay động lòng người, thì sao được nữa?
Nguyên Chẩn vỗ vai bạn, lặng lẽ an ủi. Nỗi bất lực này, ông quá hiểu.
Người dẫn chuyện chuyển đề tài: "Nói đến tác phẩm tiêu biểu của Bạch Cư Dị, phải kể hai kiệt tác kinh điển: Trường H/ận Ca và Tỳ Bà Hành."
"Hai bài thơ tự sự dài này xứng đáng gọi là tuyệt phẩm. Riêng Tỳ Bà Hành không hàm sâu ý tứ, chỉ mượn chuyện người gảy tỳ bà để ám chỉ thân phận mình - cách sáng tác quen thuộc của thi nhân. Nhưng Tỳ Bà Hành lưu truyền thiên cổ, đến nay vẫn khiến người đọc say mê, bởi văn chương tuôn chảy uyển chuyển. Đoạn tả tiếng tỳ bà thật tuyệt diệu."
"Bạch Cư Dị tiễn bạn, chợt nghe tỳ bà vẳng lại, hỏi ai đàn. Mở tiệc mời vào, người ấy khép nép bước ra - 'Thiên hô vạn hoán thỉnh xuất lai, do bão tỳ bà b/án tri diện'."
Người dẫn chuyện ngâm nga: "Danh cú đây này! 'Chuyển trục ba tiếng dây r/un r/ẩy, chưa thành khúc đã nghe đầy tình. Dây buồn dây tủi như than thở, tựa nỗi đời dâu bể lênh đênh. Ấy đâu chỉ tiếng tỳ bà nữ, chính là Bạch Cư Dị giáng chức kia!'
"Ta thích nhất đoạn này: 'Tay mân mê khẽ gảy chậm vê, Nghê Thường khúc dạo Lục Yêu soạn. Dây to ào ạt như mưa đ/á, dây nhỏ thì thầm tâm sự riêng. Tiếng cao tiếng trầm hòa điệu lạ, tựa ngọc lớn ngọc nhỏ rơi liên. Chim oanh ríu rít trong hoa lá, suối reo róc rá/ch dưới băng ngàn. Băng lạnh dây tơ bỗng đ/ứt đoạn, im lìm trong khoảnh khắc tịch liêu. Bỗng đâu sấm sét vang rền rĩ, ngựa sắt đ/ao vàng chớp bạc kêu. Khúc cuối tay quạt vung như vẽ, bốn dây x/é lụa buốt tim gan!'
"Thật là đoạn diễn tả hùng tráng! Chữ nghĩa khiến ta tưởng tượng được khúc tỳ bà tuyệt diệu thế nào, và tài văn chương của Bạch Cư Dị thật rung động lòng người."
"Nên khi tiếng đàn dứt, Đông thuyền Tây phảng lặng im. Chỉ thấy trăng thu lồng bóng nước sông xanh."
Người dẫn chuyện không kìm được cảm xúc: "Mỗi lần đọc đoạn này, ta như được hòa nhịp cùng tiếng tỳ bà, cảm xúc dâng trào mãnh liệt. Bạch Cư Dị quả thật đã đưa ngôn từ lên tầm đỉnh cao. Chẳng cần dùng lời lẽ khoa trương, chỉ bằng cách kể chuyện giản dị mà tái hiện sống động khung cảnh nghe danh cầm đàn."
Thở dài, người dẫn chuyện tiếp tục: "Sau màn trình diễn là câu chuyện đời tư của người phụ nữ gảy tỳ bà, từ thời con gái đến khi trở thành góa phụ, tựa như tiếng đàn trầm bổng chứa đầy u uất."
"Giống như sau đoạn 'Mời tương kiến', tác giả đã lược bỏ chi tiết mời đàn; sau khi khúc nhạc kết thúc, cũng bỏ qua những câu hỏi về thân thế mà dùng hai câu miêu tả ngoại hình để chuyển sang 'tự sự'. Bằng giọng văn vừa oán thán vừa luyến tiếc, tác giả đã dệt nên khúc bi ca về nửa đời bất hạnh của nàng, bổ sung hoàn hảo cho khúc nhạc 'giãi bày nỗi lòng', hoàn thiện hình tượng nhân vật nữ chính."
"Qua câu chuyện của người gảy tỳ bà, Bạch Cư Dị tìm thấy sự đồng cảm nên thốt lên: 'Cùng là kẻ lưu lạc chốn chân trời, gặp nhau đâu cần phải quen biết từ trước!'. Sau khi dẫn dắt câu chuyện của nàng, tác giả khéo léo liên hệ đến cảnh ngộ của chính mình. Trong khi nàng tỉ mỉ kể chuyện quá khứ, tác giả chỉ thoáng nhắc về hiện tại. Lấy chuyện người bổ sung cho nỗi niềm mình. Vậy nên ai trong số khán giả khóc nhiều nhất? Vị Tư Mã Giang Châu với tấm áo xanh đã ướt đẫm."
Người dẫn chuyện cảm khái: "Bạch Cư Dị khi ấy đang bị giáng chức làm Tư Mã Giang Châu. Toàn bài không một chữ thừa, dùng những câu chữ mộc mạc nhất để tạo nên kiệt tác thiên cổ. Ngàn năm sau, ai mà chẳng biết đọc Tỳ Bà Hành?"
Bạch Cư Dị đột nhiên nắm ch/ặt cổ tay, cảm thấy bài thơ mình viết hình như còn thiếu sót, chưa đủ dài.
Người dẫn chuyện: ???
Nguyên Chẩn chua chát: "Bạch Nhạc Thiên, ông cảm thấy thế nào?"
Bạch Cư Dị mỉm cười không đáp.
Nguyên Chẩn: A, thôi kết thúc tình bạn ở đây nhé.
"So với Tỳ Bà Hành, Trường H/ận Ca có phần xa lạ hơn với ta, nhưng không phải vì nó kém giá trị. Trái lại, Trường H/ận Ca không cần phải nổi tiếng như thế. Bài thơ không hoàn toàn dựa trên sự thật lịch sử, mà mượn tích cũ, dựa theo truyền thuyết dân gian để sáng tạo nên câu chuyện tình uyển chuyển, đ/ứt đoạn về Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi. Dù mối tình dưới ngòi bút Bạch Cư Dị rất cảm động, nhưng vẫn phải nhấn mạnh: Liệu tình cảm giữa Đường Huyền Tông và Dương Quý Phi có xứng gọi là tình yêu?" Người dẫn chuyện chua chát nói.
Đường Huyền Tông: Chỉ cần ta không thấy ngại, thì ngại là người khác!
"Đây không phải cố ý bới móc, nhưng Dương Quý Phi vừa mất, Đường Huyền Tông chưa kịp thương xót đã vội tranh đoạt quyền lực với con trai - thật đáng nực cười."