【Nhóm bạn bè của các thi nhân thường rất rộng rãi, nhưng đa phần chỉ là bạn bè qua bữa nhậu. Số ít thân thiết cũng chỉ là mối qu/an h/ệ nhạt nhẽo, hiếm có tình bạn thực sự sâu sắc. Thế nhưng tình bạn giữa Bạch Cư Dị và Nguyên Chẩn lại trở thành giai thoại lưu truyền.
Hai người cùng chung chí hướng, cùng nhau thúc đẩy phong trào thơ Tân Nhạc Phủ. Ngay cả sử sách sau này cũng ghi nhận tình bạn đặc biệt này.】
Nguyên Chẩn và Bạch Cư Dị nhìn nhau mỉm cười. Tình bạn của họ được con cháu đời sau ca ngợi quả là điều đáng tự hào.
【Lý Một tiếp tục: "Khi Nguyên Chẩn nghe tin Bạch Cư Dị bị giáng chức đến Cửu Giang, ông đ/au buồn đến mức viết thơ: 'Sắp ch*t mang bệ/nh gượng ngồi dậy, gió lạnh mưa dồn nỗi đ/au thêm'. Tình bạn này quả xứng danh 'Nguyên - Bạch' như hậu thế tôn vinh."
"Đáng nói là lúc đó chính Nguyên Chẩn cũng vừa bị giáng chức. Đúng là đôi bạn cùng cảnh ngộ!" Lý Một cười khẽ. "Nhưng khoảng cách không làm tình họ phai nhạt, trái lại càng thêm gắn bó."
"Hai người thường xuyên thơ từ qua lại. Có lần Bạch Cư Dị mơ thấy bạn, liền viết: 'Sớm mai gió lạnh lòng phiền muộn, Tiếng nước Thông Xuyên vọng bên tai. Chẳng biết nhớ nhau vì duyên cớ, Đêm qua ba canh mộng thấy người.'
Nguyên Chẩn xúc động họa lại: 'Non nước muôn trùng cách biệt nhau, Nhớ thương mộng lẫn chẳng hề phai. Ta nay bệ/nh hoạn h/ồn xiêu lạc, Chỉ mộng người thường chẳng mộng ai.'"
Lý Một cảm thán: "Tình bạn giữa văn nhân quả là thanh cao! Việc họa thơ tưởng chừng đơn giản mà thực sự đáng nể."】
Các thi nhân nghe đến đây không khỏi ngạc nhiên. Chẳng lẽ người đời sau không học làm thơ sao? Với họ, việc ứng tác thơ phú tựa như ăn cơm uống nước hằng ngày.
Những nho sinh từng trải qua khoa cử càng băn khoăn: Không biết làm thơ thì sao làm quan được? Chẳng phải khoa cử luôn yêu cầu thơ phú đó sao?
Những kẻ ít thiên phú thì thở dài: Thật khổ sở khi bị ép làm thơ!
Lý Một thầm nghĩ: Thời hiện đại còn chưa đỗ công chức được, huống chi về thời cổ...
Bạch Cư Dị lắc đầu: "Tính tình tốt với anh em thì đâu có gì sai, duy chỉ có chuyện đàn bà con gái mới đáng bị lên án. Quả nhiên chuyện này lưu truyền đến hậu thế."
Lý chê trách: "Chỉ có thể nói người ta có hai mặt, muốn tách hẳn ra mà nhìn mới được." Là phụ nữ nên cô thực sự rất gh/ét điểm này ở Nguyên Chẩn.
Rồi cô chợt nghĩ ra điều gì đó: "Nhắc mới nhớ, 'Truyện Oanh Oanh' cũng là do Nguyên Chẩn viết. Ai ngờ một vở kịch lưu truyền thiên cổ như thế lại ra đời từ tay ông ta, nghe sao mà kỳ quặc đến vậy?"
Lý tỏ vẻ khó nói. Từ nhỏ cô đã biết truyện này do nhà thơ Nguyên Chẩn - người cô mới quen qua sách vở - sáng tác. Thật bất ngờ mà cũng có phần hợp lý, dù bản thân cô không thích câu chuyện này lắm.
Nguyên Chẩn cười khẩy: "Viết kịch bản thì sao chứ? Thời đại này ai chẳng có vài sở thích cá nhân?"
Lý tiếp tục phân tích: "Tóm lại, phong cách sống của Nguyên Chẩn và Bạch Cư Dị hoàn toàn khác biệt. Vậy mà họ lại thân thiết, trở thành đôi bạn nổi tiếng trong lịch sử. Quả đúng là..." Cô nghĩ một lát rồi kết luận: "Thế giới rộng lớn, chuyện gì cũng có thể xảy ra."
"Sống đủ lâu, ắt sẽ thấy đủ thứ chuyện khó tin."
Nguyên Chẩn tỏ vẻ phản đối: Sao lại bảo tính cách tôi và Bạch Cư Dị chẳng hợp nhau? Có kỳ quái đến thế sao?
Bạch Cư Dị cười nhạo: "Bảo anh thu liễm bớt mà không nghe, giờ thành chuyện lạ rồi đấy!"
Nguyên Chẩn chỉ biết thở dài ngao ngán.
Lý dịu giọng: "Xét về tài học thì tình bạn của họ cũng không lạ. Chỉ cần không đào sâu vào đời tư nhân vật lịch sử, ta sẽ thấy họ vẫn rất đáng quý." Cô không thực sự gh/ét Nguyên Chẩn - nhà thơ mà cô đã biết từ nhỏ.
Lý Nhất quay lại chủ đề chính: "Bạch Cư Dị là một trong những nhà thơ vĩ đại và được yêu thích nhất triều Đường. Thơ ông giản dị, đa dạng đề tài, ngôn ngữ gần gũi mà giàu cảm xúc, để lại hơn 3000 bài."
"Dưới ngòi bút ông, ta thấy cả non sông rực rỡ: 'Mặt trời mọc, hoa trên sông đỏ hơn lửa/ Xuân về, nước biếc tựa màu chàm'. Cũng thấy những lời ấm áp: 'Rư/ợu mới vừa ủ xong/ Lò than hồng đất đỏ'. Và không thiếu những vần thơ đ/au đớn vì dân trong 'Quan thuế thóc'."
"Về mặt văn học, ông khởi xướng phong trào Tân Nhạc Phủ, đề cao tác dụng 'châm biếm' của thơ ca. Là nhà thơ, ông thành công không thể chối cãi. Còn trong chính trị, khi làm quan, Bạch Cư Dị cũng thể hiện tài năng xuất chúng và tư tưởng trị quốc tiến bộ, đóng góp lớn cho triều Đường."
Có thể nói, dù là làm quan trong triều hay tại địa phương nhậm chức, trong lòng ông lúc nào cũng chỉ nghĩ đến hai chữ "bách tính".
Bạch Cư Dị cảm thấy buồn không rõ lý do. Ông tuy nhận được đ/á/nh giá cao, nhưng điều này dường như chẳng giúp ích gì cho đất nước. Hơn nữa, hậu thế chỉ biết đến ông như một thi nhân, văn nhân. Giá như có thể, ai chẳng muốn trở thành Gia Cát Lượng như xưa? Thi ca văn chương, rốt cuộc chỉ là thú vui tiêu khiển mà thôi.
"Nhắc đến thơ Đường, không thể không nói đến Tống Từ. Đường Thi và Tống Từ là hai cột mốc vĩ đại trong lịch sử văn học Hoa Hạ. Ánh hào quang rực rỡ của chúng chiếu sáng bao thế hệ, biết bao người đã lớn lên cùng những vần thơ ấy."
"Lịch sử có những thi nhân vĩ đại, tất nhiên cũng có những từ nhân lỗi lạc."
Các văn nhân triều Tống đều xúc động. Thơ Đường đã hay, mà Tống Từ cũng tuyệt vời, chỉ tiếc màn trời bấy lâu chẳng nhắc đến, khiến người ta hụt hẫng.
"Đọc Tống Từ, không thể bỏ qua 'Mãn giang hồng' của Nhạc Phi - khúc ca tràn đầy nhiệt huyết yêu nước, nỗi h/ận mất nước nhục nhà mà người Tống không thể quên, là khát vọng 'Thu non sông cũ về một mối, chầu trời khuyết'."
"Đọc Tống Từ, phải biết 'Vũ lâm linh' của Liễu Vĩnh - đề tài muôn thuở về nỗi đ/au ly biệt, là 'Dẫu ngàn vạn tình, biết ngỏ cùng ai?' thấm đến tận xươ/ng."
"Đọc Tống Từ, không thể không nhớ 'Vĩnh ngộ lạc' của Tân Khí Tật - nỗi niềm hoài cổ thương kim, là nỗi bi phẫn 'Ai hỏi giùm: Liêm Pha già rồi, cơm còn ăn nổi chăng?'"
"Đọc Tống Từ, phải đọc: 'Trăm phương ngàn hướng ki/ếm, chợt buông tay, người ấy bỗng hiện nơi đèn tàn'
Đọc Tống Từ, phải đọc: 'Sân thẳm sâu mấy tầng? Liễu phủ khói mờ, rèm chẳng đếm nổi'
Đọc Tống Từ, phải đọc: 'Hoa rơi vô tình tưởng quen, én về sân vắng bồi hồi'
Đọc Tống Từ, phải đọc: 'Cần chi bàn được mất, trai tài gái sắc, áo trắng cũng khanh tướng'
Đọc Tống Từ, phải đọc: 'Tuổi trẻ chẳng biết sầu là gì, ham leo lầu. Ham leo lầu, vịnh thơ nói sầu'
Đọc Tống Từ, phải đọc: 'Đêm qua gió mưa bất chợt, say quên rư/ợu. Hỏi người cuốn rèm: Hải đường sao? Biết chăng, biết chăng? Hẳn xanh mướt đỏ hoe'"
"Những áng thơ ấy đều là tuyệt tác của Tống Từ, là viên ngọc sáng trong lịch sử văn học Hoa Hạ, là kho báu tinh thần vô giá." Người dẫn chuyện thở dài, "Nhưng đọc Tống Từ, nhất định phải đọc Tô Thức."
Tô Thức không phải lần đầu được màn trời nhắc đến. Ông từng vui mừng khi biết mình lưu danh sử sách, giờ lại nóng lòng muốn biết liệu lời khen của màn trời có mang lại lợi ích cho đất nước như những gì đã nói trước đó.
"Tô Thức đối với Tống Từ, như Lý Bạch đối với thơ Đường. Thiếu Lý Bạch, thơ Đường mất đi vẻ hào phóng. Thiếu Tô Thức, Tống Từ như g/ãy một cánh, mất đi vầng trăng sáng nhất."
Nếu muốn chọn một đại diện tiêu biểu cho thành tựu văn hóa nhà Tống từ biển tinh tú mênh mông, hầu hết mọi người sẽ đều hướng về một người - Tô Thức.
Ông là biểu tượng tinh thần của giới văn nhân qua ngàn năm, là bậc thầy ẩm thực phóng khoáng, là Tô Đông Pha thân thiện đáng mến."
"Ai mà chẳng yêu quý Tô Đông Pha chứ?"
"Không ai có thể không thích Lý Bạch, nên cũng chẳng ai không thích Tô Đông Pha."
Tô Triệt mỉm cười hãnh diện. Dù người anh đôi lúc không đáng tin cậy, nhưng xét về tài hoa, từ nhỏ đến giờ chưa ai sánh bằng. Được đặt ngang hàng với Lý Thái Bạch quả là xứng đáng.
Tô Thức tuy không nghĩ mình giỏi như lòng em trai tưởng tượng, nhưng vẫn không khỏi vui mừng. Dù sao đây là Lý Bạch - hình mẫu mà văn nhân nào chẳng ngưỡng m/ộ.
Lý Bạch ban đầu bị Từ phú thu hút, mỗi bài từ trong chương trình đều kinh điển đến mức người nghe phải choáng ngợp. Thể loại này khác biệt thú vị so với thơ ca, khiến ông muốn học hỏi.
Rồi ông chú ý đến Tô Thức. Người được màn trời tôn vinh giữa vô số kiệt tác hẳn phải phi thường. Dĩ nhiên, việc bị đem ra so sánh càng khiến ông tò mò hơn.
Đỗ Phủ thì thầm nghĩ: 'Không ai không thích Lý Bạch, nên chẳng ai không thích Tô Đông Pha.' Phải tạo tác phẩm xuất chúng thế nào mới nhận được lời khen ngợi ấy? Dù sao, chính ông cũng phải rất lâu sau khi mất mới được xếp cùng Thái Bạch. Vị tiểu mê đệ này không phủ nhận mình hơi gh/en tị.
Lý Nhất hào hứng nói: "Tôi từng giới thiệu vài bài của Tô Thức, đều là kiệt tác nghìn năm. Nhưng vài bài thơ sao đủ khắc họa hết Tô Đông Pha?"