“Ai chưa từng nghe qua: 'Một đêm xuân đáng giá ngàn vàng, hoa tỏa hương thơm trăng tỏa bóng'? Đây là thơ của Tô Thức.
Ai chưa từng nghe qua: 'Bụng chứa thi thư, khí chất tựa hoa'? Cũng từ thơ Tô Thức.
Ai chưa từng nghe qua: 'Đời người chốn nào là chốn quê, tựa chim hồng đạp bùn tuyết. Móng chỗ bùn in dấu vết, hồng bay nào nhớ nơi này'? Vẫn là thơ Tô Thức.
Ai chưa từng nghe qua: 'Nhớ nhau nhất lúc cam vàng chín, cành biếc trái tươi đượm sắc xuân'? Tất cả đều từ ngòi bút Tô Thức!”
Người dẫn chuyện hào hứng nói: “Những vần thơ ấy có nổi tiếng không? Đến nay nhắc đến Tây Hồ, người ta vẫn ví như nàng Tây Thi 'đẹp lúc trang điểm hay không trang điểm đều xinh'.
Nhắc đến đầu xuân, lại nhớ ngay 'hoa đào ngoài trúc ba nhánh nhỏ, vịt biết trước nước ấm sông xuân'.
Nhắc đến Lư Sơn, liền thấy 'ngang thành dãy núi, nghiêng thành đỉnh cao, xa gần cao thấp khác nhau nào. Không nhìn rõ diện mục, chỉ vì ta đứng giữa núi này'.”
Người dẫn chuyện mắt lấp lánh hỏi: “Thế nào? Thơ Tô Thức tuyệt tác phải không? Nhưng so với thơ, từ của ông còn xuất chúng hơn nữa!”
Lý Bạch gật đầu bình: “Thượng thừa chi tác.” Nhưng trong lòng thầm nghĩ, dù văn chương kiệt xuất cũng khó đỡ được lời khen “tuyệt thế vô song”, không biết từ khúc của ông phải hay đến mức nào.
Người dẫn chuyện giơ hai tay lên ng/ực, giọng đầy ngưỡng m/ộ: “Nếu Lý Bạch được gọi là Thi Tiên, thì Tô Thức xứng danh Từ Tiên! Mọi người còn chuộng gọi ông là Tô Tiên hơn!
Những bài từ nổi tiếng như 'Hoán Khê Sa' ông viết rất nhiều. Tôi đặc biệt thích hai câu: 'Nhân gian có vị là rõ ràng hoan phi thường' và 'Bơi kỳ nước suối trong' - bài sau tôi từng thuộc lòng.
Cười tươi tiếp lời: “Ai bảo đời người không trẻ lại? Nước trước sông còn chảy ngược về tây! Đừng vội hát 'tóc bạc gà vàng'! Thơ Tô Thức luôn chan chứa tinh thần lạc quan, toát lên ý chí khoáng đạt. Ai bảo tuổi trẻ không quay lại? Kìa nước trước sông còn chảy ngược kìa!
Rồi chợt trầm giọng: “Như 'Niệm Nô Kiều - Hoài cổ Xích Bích' hay 'Giang Thành Tử - Mật Châu đi săn' đều là kiệt tác nghìn đời. Nhưng riêng trong Giang Thành Tử, tôi thích nhất bài ông viết về nỗi đ/au sinh ly tử biệt...
Giọng người dẫn chuyện nghẹn lại: 'Mười năm âm dương cách biệt, chẳng nghĩ mà không quên được. M/ộ hoang ngàn dặm, biết tỏ cùng ai nỗi thê lương'... Chỉ đọc thôi đã thấy xót xa, không biết Tô Thức viết trong tâm trạng nào. 'Dù gặp lại chăng nhận ra, mặt đầy bụi, tóc tựa sương'...”
Tô Thức nghe đến đây, nụ cười dần tắt. Gương mặt thoáng hiện nỗi hoang mang.
Hắn viết bài thơ tưởng nhớ người vợ đã khuất.
“Đây là bài thơ thương nhớ vợ qu/a đ/ời, dùng điển tích Trần Sư để nói lên nỗi lòng. Văn Thử Từ giả có tiếng vang thấu trời xanh, nước mắt thấm ướt cả suối ng/uồn.”
“Kết tóc làm vợ chồng, ân ái trọn đời không xa cách. Họ là đôi vợ chồng trẻ, đồng hành suốt mười một năm, nhưng người đẹp bỗng nhiên qu/a đ/ời, khó tìm lại dấu tích. Nhiều năm sau, trong giấc mộng gặp lại, Tô Thức viết nên bài thơ tưởng nhớ này - Giấc mộng đêm về quê cũ. Cửa sổ nhỏ, nàng đang chải chuốt. Nhìn nhau không nói, chỉ thấy hàng ngàn giọt lệ.
Trong mộng, hình bóng nàng mờ ảo bên cửa sổ soi gương, hai ta lặng im nhìn nhau, ngàn vạn lời nghẹn lại trong lòng, chỉ còn những giọt nước mắt lặng lẽ rơi.”
“Mỗi năm đến chỗ đ/ứt ruột - Đêm trăng sáng, gò thông nhỏ.” Người dẫn chuyện thở dài khẽ, “Nơi ánh trăng chiếu xuống ngôi m/ộ nhỏ với cây thông non, chính là chốn người năm này qua năm khác nhớ thương ta đến đ/au lòng.”
“Nhưng người đã khuất làm sao còn tưởng niệm được? Đến giờ vẫn chỉ là kẻ sống đ/au đáu nhớ về. Người đ/au lòng từng năm ấy chính là Tô Thức.”
Lý Thương Ẩn khẽ mở miệng, càng đọc bài thơ tưởng nhớ vợ này càng thấy lòng u sầu.
“Xưa nay thơ tưởng nhớ vợ không hiếm, thơ của Nguyên Chẩn hay Lý Thương Ẩn đều rất hay. Nhưng từ khúc thương vợ thì Tô Thức là người khởi xướng. Tình cảm trong ấy thấu tim gan, khiến người nghe sao không buồn? Chẳng trách được lưu truyền nghìn năm.”
Những ai từng trải tình vợ chồng sâu nặng đều thấy lòng quặn đ/au, bài từ này buồn thương đến khó chịu.
“Trong đời Tô Thức, vụ án Ô Đài Thi là sự kiện không thể không nhắc. Chính việc này khiến ông có những giác ngộ mới, thấu hiểu nhiều điều. Giai đoạn này đúng là thời kỳ sáng tác đỉnh cao, nhiều bài từ nổi tiếng đều ra đời trong khoảng thời gian ấy.”
“Trong đó có bài Định Phong Ba ta rất thích: Chưa nghe tiếng lá rừng vang động/ Há sợ gì kêu rít mà kinh/ Gậy tre giày cỏ nhẹ hơn ngựa/ Cứ vững vàng/ Một chiếc áo tơi/ Đủ sống an nhiên cả đời.
Lúc ấy Tô Thức thoát nạn, bị giáng chức đến Hoàng Châu. Đến mùa xuân thứ ba, ông cùng bạn đi chơi gặp mưa to. Bạn bè chật vật, riêng ông thong dong bước đi, như trận mưa gió ấy chẳng hề ảnh hưởng. Khiến người ta nhớ đến vụ án Ô Đài Thi năm xưa - lúc ấy dư luận xôn xao, Tô Thức suýt mất mạng. Nhưng thời gian qua đi, ông đã có thể bình thản đối mặt. Như câu thơ: Ngoảnh lại chốn điêu tàn ngày ấy/ Không mưa không nắng, chỉ nhẹ tênh.
Ở trong nghịch cảnh vẫn không chán nản sợ hãi, tiếp tục sống cuộc đời bình thản. Tấm lòng khoáng đạt của Tô Thức đã dẫn lối cho bao người, quả không phải lời nói suông.”
Người dẫn chuyện lại chia sẻ vài câu thơ yêu thích: “Ta đặc biệt thích câu 'Mong về Giang Nam uống rư/ợu lúc già' trong bài Ký Hy. Còn có bài Nam Hải tặng Vương Định Quốc - chỗ này là quê ta, có cảm giác khó tả khôn ng/uôi.”
Tô Thức có rất nhiều tác phẩm tuyệt vời, những câu từ đẹp đẽ trong thơ ông nhiều không đếm xuể. Nhưng dù không nhớ hết, bạn nhất định phải ghi nhớ bài 'Thủy Điều Ca Đầu' của ông!
Từ xưa đã có vô số bài thơ viết về Trung thu, nhưng từ sau bài 'Minh nguyệt kỷ thời hữu' của Tô Thức, chưa có tác phẩm nào vượt qua được. Bài thơ này được xem là kiệt tác vô song trong thơ Trung thu suốt ngàn năm qua.
Người dẫn chuyện mỉm cười: 'Thơ Tô Thức khác không nhớ cũng được, nhưng bài Thủy Điều Ca Đầu nhất định phải thuộc lòng.'
Nhiều người viết thơ Trung thu không phục, bài thơ nào dám tự nhận 'có một không hai'?
Người xưa thường đặt 'Thủy Điều Ca Đầu' của Tô Thức ngang hàng với 'Thiên Vấn' của Khuất Nguyên và 'Tương Tiến Tửu' (Nâng chén hỏi trăng) của Lý Bạch.
Khuất Nguyên là bậc tiền bối vĩ đại, hàng năm lễ Đoan Ngọ đều tưởng nhớ ông. Lý Bạch là nhà thơ lãng mạn vĩ đại nhất sau Khuất Nguyên, viên ngọc sáng nhất của thơ Đường, huyền thoại bất hủ của văn hóa Hoa Hạ năm ngàn năm.
Tác phẩm của họ đều phi thường. 'Tương Tiến Tửu' của Lý Bạch từ câu hỏi 'Trăng xanh tự thuở nào?' đến 'Người nay chẳng thấy trăng xưa/Trăng xưa từng chiếu người xưa đó mà...' tạo nên sự chuyển tiếp tầng tầng lớp lớp, vừa hỏi trời cao vừa gửi gắm tâm tình.
Còn 'Thiên Vấn' của Khuất Nguyên lại mang khí phách hoàn toàn khác. Từ ng/uồn gốc trời đất, âm dương biến hóa, cho đến thần thoại, lịch sử - hỏi khắp thiên địa vạn vật, xứng danh 'kỳ tác thiên cổ'.
'Thủy Điều Ca Đầu' - kiệt tác đỉnh cao của Tô Thức, bài thơ Trung thu số một - xứng đáng đứng cùng hàng với những tác phẩm ấy.
Những câu thơ mở đầu:
'Minh nguyệt kỷ thời hữu?
Bả tửu phỏng thanh thiên.
Bất tri thiên thượng cung khuyết,
Kim tạc thị hà niên?'
(Trăng sáng từ thuở nào?
Nâng chén hỏi trời cao.
Cung quế đêm nay đó,
Là năm nào chốn nao?)
Người dẫn chuyện thở dài: 'Hỏi về quy luật trăng tròn khuyết, hỏi về thời đại nơi thiên cung - mở đầu đầy tiên khí phiêu diêu, khoáng đạt.'
Rồi những câu tiếp theo:
'Nghĩ thảnh thơi theo gió về nguyệt điện,
Lại ngại cung quế lạnh lẽo cao xa.
Múa trong bóng trăng thanh,
Sao bằng nơi trần thế?'
Đọc những câu này, ta như thấy cảnh Xích Bích trong 'Tiền Xích Bích phú' hiện về, cái đẹp siêu thoát khiến người muốn cưỡi gió mà lên.
Nửa sau bài thơ, Tô Thức hỏi trăng vì sao khi tròn lại đi qua chốn nhân gian, phải chăng mặt trăng cũng mang tâm sự riêng?
Tại sao Tô Thức lại hỏi như vậy? Bởi vì trong đêm Trung thu đoàn tụ này, ông lại phải xa cách người em trai, không thể sum họp. Vì thế, dù trăng tròn trước mắt cũng chẳng thấy vui. Người dẫn chuyện suýt bật cười: "Trăng sắp nói rồi đây, không gặp được em trai mà lại trách ta sao?"
Tô Thức không khỏi xoa mũi, đúng là nhìn trăng lại nhớ em.
Người dẫn chuyện tiếp lời: "Nhưng Tô Thức đâu có trách trăng thật. Chính ông từng nói: Người có lúc thăng trầm, trăng có khi khuyết tròn, việc đời vốn khó toàn vẹn. Ông hiểu đó là lẽ không thể đổi thay, chỉ mong mỏi - 'Nguyện kẻ ở người đi, ngàn dặm cùng ngắm vầng trăng này'."
"Hay lắm! Câu 'Nguyện kẻ ở người đi, ngàn dặm cùng ngắm vầng trăng này' quá tuyệt!" Nhiều người vỗ tay tán thưởng.
Đỗ Phủ cảm khái: "Danh bất hư truyền, bài thơ Trung thu này xứng đáng với thanh danh của ông."
Lý Bạch gật đầu: "Thật xuất sắc! Tiếc rằng không thể cùng Tô Đông Pha nâng chén luận thơ." Ông tỏ ra vô cùng yêu thích bài từ này.
Người dẫn chuyện hào hứng: "Thơ Đường tôi yêu nhất Lý Bạch, từ đời Tống tôi mê nhất Tô Thức. Hai vị chính là thần tượng trong lòng tôi! Ai mà chẳng thơ Lý Bạch, ai mà chẳng mê từ Tô Thức?"
"Hơn nữa, Tô Thức cùng cha và em trai đều tài năng lỗi lạc. Trong văn chương, ba cha con họ chiếm ba vị trí trong 'Đường Tống Bát Đại Gia'; thơ ca thì Tô Thức sánh ngang Hoàng Đình Kiên; thư pháp cùng Hoàng Đình Kiên, Mễ Phất, Thái Tương hợp thành 'Tứ đại thư pháp gia đời Tống'. Có thể nói, Tô Thức là lãnh tụ văn đàn Bắc Tống, đại diện cho thành tựu văn học cao nhất nhà Tống với những đóng góp kiệt xuất về thơ, từ, văn, sách, họa. Ông còn có thành tựu chính trị đáng kể, được truy phong thụy hiệu 'Văn Trung'. Đến nay, danh tiếng ông vẫn lẫy lừng, cách sống và đối nhân xử thế càng khiến hậu thế ngưỡng m/ộ. Vô số người yêu mến ông - yêu tài hoa xuất chúng, yêu nhân cách cao quý, yêu tấm lòng khoáng đạt."
Tô Thức khẽ mỉm cười, hiếm thấy ngại ngùng. Người đương thời vốn kín tiếng, ít khi bộc lộ tình cảm, vậy mà màn trời lại nói hậu thế bày tỏ lòng mến m/ộ ông. Ông thầm nghĩ phải cố gắng sáng tác thêm, cống hiến nhiều hơn, không dám nói để phúc cho đời sau, nhưng ít nhất xứng đáng với sự ngợi ca hôm nay.