Tôi tên là Hồ Tam, 28 tuổi, quê Nghi Xươ/ng, Hồ Bắc. Chính tôi là kẻ tham gia b/ắt c/óc Trương Đa Kim.
Tôi vốn dĩ không phải là kẻ b/ắt c/óc, chỉ là một công nhân bình thường trong một xưởng may.
Những năm đi làm thuê ở Bắc Kinh, tuy rất vất vả nhưng tôi chẳng ki/ếm được bao nhiêu. Nhìn thấy có những người xung quanh mình suốt ngày ăn chơi xa xỉ, trong lòng tôi ngày càng cảm thấy bất công.
Đầu tháng 3 năm nay, mấy người bạn đồng hương là Yến, Điền và Trương đến chỗ tôi chơi. Chúng tôi ngồi bàn bạc rồi quyết định làm một việc lớn – b/ắt c/óc người để lấy tiền tiêu xài.
Nói làm là làm, chúng tôi thảo luận chi tiết kế hoạch. Địa điểm giam giữ con tin cũng chọn xong, đó là một hầm trú ẩn bỏ hoang ở thị trấn Doanh Hải. Ở đó không có người lui tới, lại giống như mê cung, quả là nơi lý tưởng để giam người.
Không đ/á/nh trận mà không chuẩn bị, trước khi hành động, cả bốn chúng tôi còn xuống đó thăm dò, chọn phòng, làm ký hiệu. Thấy không còn sơ hở, chúng tôi bắt đầu tìm “con mồi”.
Ngày 27/3, tại khu vực Cựu Cung, chúng tôi đã nhắm tới 4 chiếc xe, nhưng 3 tài xế đầu không chịu đón chúng tôi.
Khi chuẩn bị “tan ca”, tính đổi ngày khác hành động thì chính Trương Đa Kim tự mình lái xe tới.
Chúng tôi nghĩ ông trời cũng đang giúp chúng tôi, cả bọn mừng rỡ bước lên xe. Tới một ngõ c/ụt ở thị trấn Doanh Hải, chúng tôi đã “thu phục” hắn dễ dàng.
Không ngờ là rất nhanh sau đó, chính chúng tôi lại bị cảnh sát “thu phục”.
Ghi chép phỏng vấn của cô Hoa Nam cách đây 15 năm (viết ngày 28/9/2005)
Ngày 28/9, mang theo 1.200 mét dây điện, hai đèn pin công suất lớn, một đèn pin quay tay sạc, dưới sự dẫn đường của một người địa phương, lúc 4 giờ chiều, ba chúng tôi đến nơi từng giam giữ Trương Đa Kim.
Nhìn từ xa, đây chỉ là một gò đất bình thường, cao chừng 200 mét, mọc đầy cỏ dại cao ngang người. Theo lối mòn leo lên đỉnh dốc, trên đỉnh hoang vu có một ụ đất trơ trọi khá dễ thấy. Bên phía tây ụ đất ẩn hiện một lỗ nhỏ, nếu không cúi xuống tìm sẽ rất khó phát hiện. Đó chính là cửa vào hang bí mật.
Nói chính x/á/c thì đây không phải “cửa hang” mà giống như một “khe nứt”, rộng chưa đến nửa mét, chỉ có thể nằm sấp, nghiêng người lách từng chút một mà chui vào. Vừa mới vào, tay đã bị trầy một mảng da, khởi đầu đã không thuận lợi.
Sau một hồi khó nhọc mới lọt vào trong, trước mắt là một khoảng tối om. Đầu còn chưa vào hết đã nghe tiếng gọi: “Cẩn thận dưới chân, đừng rơi xuống.”
Khi mắt quen dần với ánh sáng lờ mờ, tôi thấy từ một lỗ quan sát phía bắc của tường có một tia sáng rọi vào, rất chói mắt. Nhờ vậy có thể nhìn ra một căn phòng tròn nhỏ chừng 3, 4 mét vuông. Trên tường có bậc để đồ, dưới chân là một hố tròn như giếng trời, chính là lối xuống sâu bên trong.
Hít một hơi thật sâu, chúng tôi bắt đầu đi xuống theo bậc xoắn. Vì nhiều năm không ai dọn, bậc phủ đầy đất, ẩm ướt khiến trơn trượt, tường lạnh toát, đọng nước li ti. Chúng tôi phải chống tay vào tường, dán sát người vào vách, chân trượt từng bước xuống. Muỗi bay lo/ạn xạ, mùi ẩm mốc nồng nặc khiến vài phút lại phải ho kẻo ngạt thở.
Đèn pin chỉ chiếu được vài chục mét, trong hang im phăng phắc. Tắt đèn pin thì chẳng khác gì nhắm mắt. Trong bóng tối, cứ ngỡ có vô số con mắt đang dõi theo.
“Có ai không?” – tiếng gọi vang lên, vọng lại nhiều lần. Bóng đèn pin hắt lên tường lắc lư theo bước chân, ánh sáng trắng rọi vào sâu hun hút càng tăng thêm vẻ bí hiểm.
Nín thở, chỉ còn tiếng cửa trập máy ảnh và nhịp tim. Cái lạnh lẽo đến gai người.
“Tôi hỏi anh, nếu bị bắt ở một mình trong này ba ngày, anh sẽ thế nào?” – tôi hỏi phóng viên ảnh.
“Tôi đoán mình sẽ phát đi/ên, ba ngày chứ ít sao, không ch*t vì sợ thì cũng hóa đi/ên mất!” – anh ta đáp.
Theo con đường hẹp tiến vào, thỉnh thoảng lại hiện ra những căn phòng nhỏ. Để không lạc, chúng tôi dùng dây điện làm dấu, vừa đi vừa thả. Đi qua nhiều lớp cửa xi măng dày, chui qua đường hầm dài, chẳng khác nào lạc trong một mê cung dưới lòng đất.
Không ai dám đi xa người khác, đầu không ít lần đ/ập vào trần, mấy bận chui nhầm vào ngõ c/ụt lại phải quay ra.
Đi hơn một tiếng, không biết qua bao nhiêu cửa, tới cuối một hành lang, đẩy một cánh cửa, trên đất chất đống băng dính đã đổi màu. Chúng tôi x/á/c định đây chính là nơi từng giam giữ Trương Đa Kim.
Mở cửa xi măng dày bước vào, thấy trong căn phòng chưa đầy 3 mét vuông, không có thông gió hay ánh sáng. Trương Đa Kim đã từng bị nh/ốt ở đây suốt 56 tiếng đồng hồ. Trên tường vẫn còn mờ mờ chữ viết bằng phấn – tên mà kẻ bị b/ắt c/óc để lại.
Người dân địa phương gọi đây là “lò đất”. Thực chất là hầm trú ẩn bỏ hoang. Vào mùa hè, thanh niên trong làng thường vào hóng mát, nhưng không ai dám xuống một mình. Bên trong đường ngang ngõ dọc, phòng ốc giống hệt nhau, dễ lạc phương hướng. Vì thế trên tường có rất nhiều mũi tên chỉ lối – dấu vết của những người từng vào đây.
Sau gần hai giờ dưới lòng đất, bất ngờ ánh sáng đèn pin mờ dần rồi tắt hẳn. May mà còn dây điện làm dấu, chúng tôi lần theo, trong ánh sáng leo lét của chiếc đèn pin quay tay, lảo đảo quay lại cửa hang.
“Các anh mới đi được nhiều nhất một nửa thôi.” – người dẫn đường nói.
Rời hang động bí ẩn ấy, tôi thực sự thấy sợ.
Nghĩ mà xem, nếu bị kéo vào trong này, giam lại một mình, liệu tôi có chịu nổi ba ngày không?
(Tên một số nhân vật trong bài đã được thay đổi)