2

La thị là mẹ ruột của Tiểu Liễu.

Ở con hẻm Thạch Đầu, cách một con phố là xưởng rư/ợu nhà họ Tào. Chưởng quầy của xưởng tên là Tào M/a Tử, cũng chính là cha ruột của Tiểu Liễu.

Tào M/a Tử trước đây khởi nghiệp bằng nghề b/án tương, còn có biệt danh là "Chưởng quầy cóc ghẻ".

Chỉ vì ông ta x/ấu xí, vóc dáng thấp bé, trên mặt có những vết s/ẹo do bệ/nh đậu mùa để lại, trông giống như một lớp da cóc x/ấu xí.

Năm đó, La thị gả cho ông ta, hoàn toàn là bất đắc dĩ.

Bà số khổ, cha mẹ mất sớm, phải nương nhờ nhà cậu, cuối cùng bị b/án vào lầu xanh.

Đúng lúc đó, Tào M/a Tử vào thành giao tương cho một tửu lâu. Chưởng quầy của tửu lâu đó có qu/an h/ệ thân thiết với ông ta, nên nhất quyết kéo ông ta đi uống rư/ợu hoa ở lầu xanh.

Đây là lần đầu tiên Tào M/a Tử đặt chân đến nơi đó, cũng là lần đầu tiên La thị tiếp khách.

Bà ấy rất đáng thương, trên cánh tay chi chít dấu kim đ/âm.

Để chuộc bà ra khỏi lầu xanh, Tào M/a Tử gần như vét sạch gia sản.

Sau này, La thị thuận theo lẽ thường trở thành Tào nương tử.

Ân nghĩa là ân nghĩa, tình cảm là tình cảm. Bà ấy biết ơn Tào M/a Tử, nhưng một cô gái xinh đẹp như hoa lại phải gả cho một gã cóc ghẻ, lại còn sinh con đẻ cái cho hắn, suy cho cùng vẫn khó mà cam lòng.

Từ không cam lòng dần trở thành chán gh/ét.

Từ chán gh/ét lại hóa thành c/ăm h/ận đến tột cùng.

Sau khi Tiểu Liễu ra đời, sự chán gh/ét của La thị đạt đến cực điểm.

Tiểu Liễu giống cha.

Ngoại trừ không có s/ẹo trên mặt, thì cô bé nhỏ xíu này có khuôn mặt dẹt, mũi hếch và đôi mắt nhỏ.

Miệng của cô bé rất to, giống hệt miệng cha.

Từ khi còn thơ bé, cô đã biết mẹ không thích mình.

Mẹ chỉ thích chị gái Ngọc Nhụy.

Ngọc Nhụy lớn hơn Tiểu Liễu hai tuổi, giống mẹ, lông mày, mắt, miệng, răng đều đẹp như tranh vẽ, không có khuyết điểm nào.

Từ khi Tiểu Liễu còn nhỏ, cha cô đã chuyển vào sống trong xưởng rư/ợu rồi.

Ngôi nhà trong con hẻm Thạch Đầu chỉ cách xưởng rư/ợu nhà họ Tào một con phố, nhưng mẹ cô không cho cha cô về nhà sống.

Cả thị trấn ai cũng biết, chưởng quầy cóc ghẻ của xưởng rư/ợu nhà họ Tào rất nghe lời vợ.

Ông ta có tài làm tương rất giỏi, lại tính toán sắc sảo, làm ăn phát đạt, nhưng chỉ khi đối diện với La thị, ông ta lại trở nên nhún nhường, ngoan ngoãn, để bà muốn làm gì thì làm.

3

Xưởng rư/ợu nhà họ Tào lúc nào cũng nhộn nhịp, tấp nập người đến người đi.

Trong tiệm, ngoài rư/ợu cặn, nước cốt rư/ợu, thì thứ b/án chạy nhất chính là tương mới.

Tương là một trong "bát trân" (tám món ngon quý hiếm), cũng là một loại gia vị không thể thiếu trên bàn ăn.

Khổng tử đã từng nói: "C/ắt thịt mà không có tương, không thể coi là món ăn ngon." Dân gian cũng đã có truyền thống dùng tương trong bữa ăn từ lâu đời.

Trước khi dấn thân vào nghề, Tào M/a Tử vốn chỉ là một người khuân vác. Nhưng khi trở thành chưởng quầy, ông ta lại không hề qua loa chút nào.

Ngoài việc quán xuyến toàn bộ cửa tiệm và hậu viện, ông ta còn tự mình giám sát công đoạn làm tương. Ông cùng các nhân công ủ men, cho vào chum, phơi sương phơi nắng suốt nhiều ngày, chờ lên men rồi mới đem đóng vào hũ.

Công việc làm tương rất cực nhọc, mỗi ngày đều phải dùng cào để trộn đều, nghiền nhuyễn, không thể lười biếng chút nào.

Xưởng rư/ợu nhà họ Tào nổi tiếng xa gần nhờ vào chất lượng tương của họ.

Tương có rất nhiều loại, được chia thành tương thịt và tương dưa muối.

Tương thịt lại được chia thành bảy loại gọi là thất hài, gồm tương làm từ bảy loại thịt: cá, thỏ, nhạn, ốc sên, trai, trứng kiến và thịt heo.

Tương dưa muối ngoài tương đậu nành còn có cả dưa hoàng tinh, cải bắp, măng được ướp thành các loại tương rau củ.

Xưởng rư/ợu lúc nào cũng nồng nặc mùi chua nồng của tương lên men.

Mùi này ám vào quần áo của tất cả mọi người trong tiệm, từ chưởng quầy Hồ thúc cho đến Trương bà bà.

Trương bà bà răng đã gần rụng hết, đi đường lúc nào cũng r/un r/ẩy.

Từ nhỏ, Tiểu Liễu đã nghe nói cha cô trước kia gánh tương rong ruổi khắp các con phố, rồi nhặt được Trương bà bà giữa đường.

Tiểu Liễu luôn cảm thấy, ngoài diện mạo ra, cha cô không có điểm nào là không tốt cả.

Ông ngồi trước tiệm tính sổ sách, gặp kẻ ăn mày vào xin cơm thì chẳng bao giờ xua đuổi.

Trong tiệm có một cái nồi lớn, thường xuyên dùng để nấu cháo.

Những gia đình nghèo trong trấn, ai không có cơm ăn, đều biết chỗ này có thể đến xin một bát cháo.

Cha cô cũng là một người số khổ. Hồi nhỏ, ông bị kẻ x/ấu b/ắt c/óc, suýt chút nữa bị bọn buôn người c/ắt một ngón tay, may mà bị đậu mùa nên mới thoát được.

Không còn người thân thích, sau khi nhặt được Trương bà bà đưa về nhà, ông đã xem bà như người thân duy nhất, được bà chăm sóc như con ruột.

Tiểu Liễu rất thích Trương bà bà, nhưng La thị thì không.

Cha cô từng bàn với mẹ muốn đón Trương bà bà về sống trong nhà ở hẻm Thạch Đầu, như vậy bà vừa có chỗ ở ổn định, vừa có thể giúp trông nom tiệm.

Nhưng La thị lập tức trừng mắt, tức gi/ận nói:

"Ai thích làm con rùa thì cứ việc, đừng hòng lôi đống dơ bẩn đó vào nhà tôi! Còn nhắc chuyện này nữa thì tôi không để yên đâu!"

Cha cô thấy bà nổi gi/ận, cũng không dám nhắc lại chuyện đó lần nào nữa.

Trương bà bà cũng chẳng ưa gì La thị. Tiểu Liễu thường nghe bà bất mãn lẩm bẩm với cha:

"Nghiệt chướng gì mà cưới phải cái loại đàn bà đó! Chỉ vì cô ta có chút nhan sắc thôi sao? Nhà người ta còn chẳng thèm gả cho anh nữa kìa..."

Bà lão thương cha cô.

Bà coi ông như con ruột mà chăm sóc, dù lưng c/òng tay run vẫn đi thu dọn quần áo bẩn mang đi giặt.

Mỗi khi Tiểu Liễu ngủ lại trong xưởng rư/ợu, Trương bà bà luôn ngủ cùng cô trong căn phòng nhỏ phía sau.

Trương bà bà luôn thích càm ràm, Tiểu Liễu thường nghe bà nói về cha cô, lời lẽ phần nhiều là trách móc La thị hoặc m/ắng cha cô ng/u muội, mê muội không tỉnh ngộ.

Có lần bà tức đến phát khóc, ôm ch/ặt Tiểu Liễu mà than thở:

"Năm đó nếu cha con không bị q/uỷ ám, nghe lời khuyên bảo, thì đâu đến nỗi thân tàn m/a dại thế này! Hai bàn tay trắng, chẳng có gì trong tay! Đúng là số khổ, nhưng nếu không có lý do nào khác, thì ai lại chịu thiệt để làm cái cuộc m/ua b/án này? Mạng của nó đáng giá bao nhiêu chứ…"

Rồi bà quay sang nói với Tiểu Liễu:

"Nhưng mà, Liễu nhi à, ai cũng có số cả. Bà già này cũng chẳng biết mình còn sống được bao lâu nữa đâu..."

4.

Tiểu Liễu còn nhỏ, không hiểu được lời của bà bà.

Mẹ không cho cô bé ăn nho, trong lòng cô chỉ nghĩ chạy đến xưởng rư/ợu tìm cha.

Mỗi lần thấy con gái ấm ức từ hẻm Thạch Đầu bước sang, cha cô luôn thở dài, xoa đầu cô, thương xót nói:

"Sao con chẳng lớn chút nào, lại cứ giống cha thế này? Cha x/ấu cũng đành, nhưng con là con gái, không thể giống mẹ và chị con một chút sao?"

Tiểu Liễu nhận ra cha rất buồn.

Hai cha con đều có cái miệng rộng giống nhau, ngay cả dáng vẻ lúc buồn cũng y hệt.

Một con cóc lớn và một con cóc nhỏ, cả hai đều mím môi lén lau nước mắt.

Nhưng con cóc nhỏ rất hiểu chuyện, ôm cổ cha, hôn lên khuôn mặt đầy s/ẹo của ông, nghiêm túc nói:

"Cha không x/ấu, Liễu nhi thích cha nhất!"

Tào M/a Tử cảm động, hé miệng định cười.

Nhưng khi thấy con gái cũng nhoẻn miệng cười giống mình, ông lại bật khóc.

Thật sự quá x/ấu rồi.

Mũi hếch, mắt nhỏ, miệng rộng... Con cóc lớn bị con cóc nhỏ làm cho khóc vì x/ấu.

Lúc đó, Tiểu Liễu mới chỉ năm tuổi.

Tào M/a Tử tuy x/ấu, dáng người không cao, nhưng thực ra ông vẫn còn trẻ, giọng nói lại rất dễ nghe.

Cầm xiên kẹo hồ lô cha m/ua cho, Tiểu Liễu lập tức quên mất nỗi tủi thân vì không được ăn nho.

Cô bé quen thuộc đi lại trong xưởng rư/ợu, lúc thì nhìn cha ngồi sau quầy tính sổ sách, lúc lại chạy xem các chưởng quầy đóng tương vào hũ.

Ở đây ai cũng bận rộn, xe lừa chở hàng tới tấp ra vào trước cửa.

Cuối cùng, cô sẽ ngoan ngoãn ngồi cạnh Trương bà bà, chìa đôi tay nhỏ nhắn giúp bà nhặt rau trong rổ.

Xưởng rư/ợu lo cơm cho mọi người.

Chú Hồ quản sự là một người đàn ông to cao vạm vỡ, thường bỏ nhiều loại rau vào nấu chung một nồi hầm, thỉnh thoảng lại thêm chút thịt.

Khi phát cơm, mỗi người một bát lớn, bánh bao thì được ăn thoải mái.

Tiểu Liễu thích xưởng rư/ợu nhà họ Tào.

Ở đây nhộn nhịp, náo nhiệt, không giống căn nhà trong hẻm Thạch Đầu, nơi mẹ và Xuân Hạnh suốt ngày chỉ chăm lo cho chị cô, hoàn toàn không đoái hoài đến cô.

Các chưởng quầy trong xưởng không ai chê cô x/ấu, ngược lại còn vui vẻ gọi cô là "Tiểu Đông gia".

Mỗi lần chú Hồ nấu nồi hầm lớn, vì có cô bé ở đó nên sẽ cố tình cho thêm vài miếng thịt, và cuối cùng, chỉ riêng bát của cô là có phần.

Trương bà bà cũng r/un r/ẩy vào bếp nấu cho cô một bát nước đường hoặc chiên một quả trứng.

Nhưng cha không cho phép Tiểu Liễu ở lại đây mãi.

Ông nói, trong cửa tiệm toàn là đàn ông, bà bà lại già rồi, không tiện chăm sóc cô. Con gái vẫn nên về nhà, sống cùng chị và mẹ mới phải.

Đêm đó là đêm cuối cùng Tiểu Liễu ở lại xưởng rư/ợu.

Cô bé đã ở đây mấy ngày rồi, và đã hứa với cha rằng ngày mai sẽ về nhà.

Vườn tương ở sân sau xưởng rư/ợu rất lớn, phía Đông và Tây đều có mấy gian phòng.

Viện phía Đông có bếp và giường ngủ tập thể, nơi chú Hồ cùng mấy chưởng quầy trẻ tuổi ở.

Viện phía Tây sạch sẽ hơn một chút, là nơi bà bà và cha cô ở.

Tiểu Liễu ngủ chung phòng với bà.

Đêm khuya tĩnh lặng, bà đã ngủ say.

Tiểu Liễu bị buồn tiểu làm thức giấc, mò mẫm trong bóng tối đi ra nhà xí.

Khi trở về, cô thấy phòng cha vẫn còn ánh đèn leo lét.

Trời tối đen, bên ngoài gió bắt đầu nổi lên.

Dưới màn đêm, những chiếc chum lớn trong vườn tương xếp san sát, từng cái từng cái đậy nắp rơm lớn, đen kịt một vùng, trong mắt Tiểu Liễu trông như những ngọn núi nhỏ.

Cũng giống như... những nấm mồ.

Tiếng gió rít qua các khe hở giữa những chiếc chum tương, vang lên âm thanh kỳ quái như tiếng khóc của m/a q/uỷ.

Tiểu Liễu rùng mình, chợt nhớ đến giấc mơ mấy hôm trước.

Cô bé rất sợ hãi, thấy phòng cha vẫn còn ánh đèn, liền vội vàng chạy tới đó.

Giờ tý canh ba, trăng mờ gió lớn.

Tiểu Liễu đứng ngoài cửa phòng cha, vừa định bước vào, thì qua khe cửa, cô thấy cha đang quỳ dưới đất, quay lưng về phía mình.

Ngọn đèn dầu trong phòng lay động.

Tiểu Liễu dụi mắt, nhìn thấy cơ thể cha đang r/un r/ẩy, trên chiếc ghế trước mặt ông, có một bà lão tóc trắng đ/áng s/ợ đang ngồi xếp bằng!

Mái tóc bà ta rất dài, xõa xuống tận đất, che phủ gần hết cơ thể và chiếc áo choàng đen.

Bà ta rất già, gương mặt dài kỳ quái.

Khuôn mặt màu xanh tím, mũi và cằm nhọn hoắt, gò má hóp sâu, môi khô quắt, hai bên xươ/ng gò má trễ xuống như một bộ xươ/ng khô.

Đôi mắt bà ta có màu xám trắng rợn người, con ngươi mảnh dẹt, dài và nhỏ.

Chỉ nhìn thoáng qua, Tiểu Liễu đã nhận ra đó không phải là mắt người.

Mà là... mắt của dê.

Đúng vậy, là mắt dê.

Trước Tết năm ngoái, cha bảo chú Hồ làm thêm vài món ăn, chú Hồ ra chợ m/ua ít thịt dê về.

Ông ấy còn m/ua một cái đầu dê, nói rằng sẽ hầm để ăn.

Cái đầu dê mà chú Hồ m/ua về rất tươi, ông ấy nói là vừa mới gi*t mổ xong.

Tiểu Liễu tình cờ có mặt ở xưởng rư/ợu, đã nhìn chằm chằm vào cái đầu dê ấy một lúc lâu.

Mắt dê có tròng trắng bao quanh bốn phía, con ngươi dẹt dẹt, không giống mắt người, cũng không giống con ngươi dọc của các loài gia súc thông thường. Tròng mắt nằm ngang trong hốc mắt, đảo qua đảo lại, trông vô cùng rợn người.

Lúc đó, Tiểu Liễu đã cảm thấy có chút sợ hãi.

Không ngờ khi cha trở về, nhìn thấy cái đầu dê ấy, phản ứng còn dữ dội hơn cô.

Ông hét lên một tiếng, thậm chí sợ đến mức ngồi bệt xuống đất, tay r/un r/ẩy, vội vàng bảo chú Hồ mau đem cái đầu dê đi.

Cả thịt dê cũng không được ăn nữa.

Chú Hồ sau đó âm thầm cười nhạo cha cô, nói rằng đường đường là một ông chủ tiệm rư/ợu, đi giao hàng vào thành phố gặp cư/ớp còn không sợ đến mức ngã quỵ, vậy mà lại sợ một con dê.

Danh sách chương

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Đọc tiếp

Bảng xếp hạng

Mới cập nhật

Xem thêm