Ta cúi đầu khép nép, hàng mi r/un r/ẩy, lệ giọt lăn dài. Giọng nói mang theo khát khao, lại như nỗi niềm thổn thức khi về gần quê cũ: "... Phụ thân?"
Khanh tướng càng thêm xót xa, đáp lời: "Ừ".
Mẹ ta vốn là chính thất của Khanh tướng, gia cảnh ở quê nhà cũng đủ đầy. Năm xưa chàng lên kinh ứng thí, nhà bị cư/ớp phá. Mẹ mang th/ai chạy trốn, ngược đường tìm chồng, nào ngờ giữa đường bị b/ắt c/óc, b/án vào lầu xanh kinh thành.
Vì bụng mang dạ chửa còn nhỏ, khách làng chơi đều tưởng mẹ là kỹ nữ bình thường. Thiệu Thị Lang khi ấy đã chuộc mẹ về làm thiếp, mẹ mượn danh th/ai nhi giả xưng con nhà quan để ta được yên thân.
Năm ấy Khanh tướng bảng vàng vinh quy, đón tiếp người người tấp nập. Ánh mắt chàng tìm ki/ếm khắp nơi, nào thấy song thân hiền từ cùng hiền thê dịu dàng. Quan huyện bước tới, lưỡng lự giữa mừng công và báo tang.
Hắn nghẹn giọng: "Trạng nguyên... xin nghe hung tin".
Hai cụ cùng gia nhân đều đã thành oan h/ồn, duy chỉ có vợ biệt tích. Chàng ôm chút hy vọng tìm ki/ếm bao năm, mãi đến vụ án Ngô tướng mưu phản mới lộ ra tên tiểu tặc khai nhận từng cư/ớp phá gia trang Khanh gia. Kinh động triều đình, chàng vội dốc sức điều tra, tìm đến Thiệu phủ. Khi ấy mẹ đã qu/a đ/ời, còn ta sắp lên đoạn đầu đài. Chàng bỏ bê chính sự, phó mặc cho tân tướng, một mình phi ngựa đến đất lưu đày.
"Là lỗi của phụ, không sớm tìm thấy các con. Cùng đất kinh thành, giá như gặp một lần..." Khanh tướng nhắm mắt đ/au đớn. "Sao có thể đến nông nỗi này!"
"Tạo hóa trêu người." Ta thở dài.
Khanh tướng lau khô mặt lệ: "Đừng khóc, từ nay phụ sẽ không để con chịu thiệt thòi".
Lòng ta giá buốt. Chàng tưởng số phận trớ trêu khi hai người cùng thành mà không gặp - một vị quan triều, một cung phi hậu viện. Nào hay mẹ từng ngóng về hoàng thành than thở "con gái không được như cha đỗ đạt", từng nép cửa dòm nghi thức yến tiệc.
Ta tưởng "cha" là Thiệu Thị Lang, nào ngờ mẹ đang tìm bóng hình Khanh tướng trong đám quan khách. Bà luôn biết chân tướng, đặt tên ta Thiệu Khanh Xuân - chữ "Khanh" chất chứa bao tình ý. Nhưng sao không nói? Không tìm? Bởi tự thấy thân phận kỹ nữ, thiếp thất làm nh/ục phu quân!
Đàn bà cam chịu thay đời, nhẫn nhục nuôi con trong bùn lầy. Nhưng sự hy sinh ấy đặt sai chỗ. Ai đã tẩy n/ão khiến họ coi chồng như trời, hi sinh cả mạng sống? Mẹ ta hi sinh - khổ cực. Chị ta lương thiện - khốn đốn. Nỗi đ/au đời họ làm đẹp thêm cho đàn ông.
Nhìn vị tướng quốc thương tâm, ta tự hỏi: Giá như mẹ còn sống, liệu chàng có dám đón bà già nua từng làm kỹ nữ về phủ? Có dõng dạc tuyên bố "Đây là chính thất của ta"? Có lẽ sự ra đi của phụ nữ mới vẹn toàn tấm chân tình nam tử. Ngay cả nỗi sầu thảm, đàn ông cũng mượn m/áu phụ nữ để viết nên!
Hỡi đàn bà ngốc nghếch! Tỉnh lại đi! Hãy vị kỷ, đ/ộc á/c, yêu chính mình. Danh hiệu hiền thục do đàn ông đặt ra, chỉ là xiềng xích vô hình. Xã hội ca tụng sự hy sinh nữ nhi, kỳ thực đó là âm thanh đ/ộc quyền của nam giới.
Ta - kẻ ích kỷ đ/ộc địa này - sẽ không lặp lại vết xe đổ. Nước mắt chỉ là vũ khí phụ, quyền lực mới là lưỡi d/ao sắc. Như bao th/uốc đ/ộc Trương Dã Bằng trao, như thanh đoản đ/ao Đông săn năm ấy, như quyền uy tột đỉnh trong tay Khanh tướng...
"Xuân nhi, Xuân nhi?"
"Dạ?" Ta gi/ật mình.
"Lại nhớ chuyện xưa rồi à?"
Ta gượng cười, lệ sắp rơi: "Chỉ thoáng nhớ mẹ..."
Khanh tướng thở dài, dặn dò đủ điều đến tối mịt mới lui về. Vừa khuất bóng, ta liền lau khô má lệ. Nước mắt chỉ là công cụ, chứ đâu phải vũ khí duy nhất? Dù mượn lệ để mưu cầu, quyền ban phát vẫn nằm trong tay kẻ khác.
Thứ vũ khí thực thụ, phải là lưỡi đ/ao Đông săn ta nắm ch/ặt, là đ/ộc dược Trương Dã Bằng đưa, hay quyền lực tối thượng như Khanh tướng đang nắm giữ...