Trứng gà ngũ sắc, mỗi quả đáng giá mấy nén bạc. Hồi xưa theo mẹ vào cung, tôi từng được nếm qua, hương thơm ngọt ngào, hấp dẫn thành bát trứng hấp mềm mịn.
Nàng bỗng nở nụ cười, từ mũi phát ra tiếng khịt kh/inh bỉ:
"Làm việc thì ng/u ngốc như heo, dỗ dành người lại chẳng cần học hành. Quả đúng là con nhà bàn toán, trứng gà cũng phân biệt sang hèn."
Tôi giả vờ không nghe thấy lời mỉa mai. Dù sao nàng đã chịu đùa cợt, ấy là điềm lành.
Tưởng rằng từ nay cuộc sống sẽ tốt hơn. Nào ngờ đêm ấy, Ngũ ca và Tẩu tử lại cãi nhau. Lần này, Tẩu tử gói ghém đồ đạc, khóc lóc thảm thiết:
"Mai ta li dị, nhà họ Vương này ta chẳng ở nổi nữa!"
Áo choàng chưa kịp khoác, tôi vội chạy ra. Hộp tiền văng trên đất, bạc lẻ vương vãi khắp nơi.
"Nuôi nấng con bé, cho nó bát cơm cũng đành." Tẩu tử lau nước mắt:
"Chàng là hương thân hay địa chủ? Nhà nghèo rớt mồng tơi, đồ đạc chẳng đủ bộ, còn mơ cho nó đi học?"
Thì ra Ngũ ca muốn cho tôi đi học. Tôi lắc đầu như bánh xe quay:
"Em không muốn học. Em chỉ muốn theo Tẩu tử cấy lúa, thêu thùa."
Lời dối lòng. Từ thuở biết nói, tôi đã mơ được cắp sách. Mẹ từng mời nữ sư đến dạy khi tôi lên sáu. Phụ thân đúc cả bộ văn phòng tứ bảo bằng vàng ngọc. Huynh trưởng mỗi chiều về lại dạy thơ... Giá được chọn, ai muốn làm kẻ chân lấm tay bùn?
"Nhu Nhi, theo ta khổ em rồi. Nhưng Loan Nhiên không học, đời sau lại khổ như chúng ta?" Ngũ ca nắm tay vợ:
"Nhà tử tế nào cưới dâu m/ù chữ?"
Phải rồi, dù buôn b/án ngoài chợ, chánh thất cũng phải biết tính toán. Kẻ vô học tựa củ khoai vùi trong bùn, mục nát dần theo năm tháng.
Tẩu tử thấy tôi, lại khịt mũi:
"M/áu họ Vương đậm quá. Ta cày cuốc cả đời chẳng bằng nó thương em."
"Bị lũ yêu tà trong làng gièm pha, chẳng thấy nó bênh vực. Con bé tội đồ này lại lo tính chu đáo. Nghe đây Loan Nhiên! Sau này nên người mà vo/ng ân, bất hiếu với anh trai, mày chẳng phải con người!"
Nghe vậy là đã đồng ý. Cả người tôi nhẹ bẫng. Áo vá chằng vá đụp của Ngũ ca và Tẩu tử dưới trăng như gấm hoa, rực rỡ hơn cả cung nữ.
"Loan Nhiên nguyện chăm học. Sau làm nữ quan hay về nhà chồng, nhất định phụng dưỡng anh chị trọn đời."
Tẩu tử đảo mắt, khóe miệng hơi nhếch:
"Đừng có nói ngon nói ngọt. Hai ta là người thật thà, nghe mắc cổ. Đi ngủ đi!"
Tôi vào được thư viện, Tẩu tử không gây chuyện nữa. Nhưng nàng nhận thêm thêu thùa, chẳng còn thời gian ra đồng cãi vã. Ngũ ca về muộn hơn, vừa mổ lợn vừa khuân vác ở bến sông Biện.
Dân làng lại thêm chuyện chê cười:
"Nghèo rớt mồng tơi còn mơ đào tạo học giả. Làng Đại Hà mấy chục năm chưa có ai, ảo tưởng hão huyền!"
Nếu Tẩu tử nghe được, hẳn nàng lại chỏ mắm bảo tôi phấn đấu.
Thư viện toàn công tử, tiểu thư. Học sinh nông dân chỉ mình tôi. Chúng dùng mực đắt tiền vẽ gà vịt lên bàn, viết lời chế nhạo lên giấy điệp. Thậm chí gi/ật lông bút duy nhất của tôi đến trụi lủi.
Tôi nhặt lông gà, nấu hồ bột, thức mấy đêm chế bút mới. Nhưng ngòi bút mềm oặt, thấm nước chẳng viết được. Sau cùng, tôi nhặt cành cây, quỳ trên đất tập viết Thiên - Địa - Nhân, rồi nhiều chữ hơn.
Tết đến, cả làng du xuân. Tẩu tử xách giỏ trứng dắt tôi. Đến nhà nào, tôi cũng đọc:
"Nhật hữu hi, nguyệt hữu quang. Phú thả xươ/ng, thọ nhi khang. Tân xuân gia bình, trường lạc vị dương."
Vốn là thơ chúc Tết tôi tặng Tẩu tử. Cả làng chẳng ai hiểu, nhưng nàng say sưa giải thích:
"Loan Nhiên đi học, lắm trò hay lắm! Nó chúc các vị năm mới đấy!"
"Ta đã bảo nhà quê không hiểu rồi. Nhưng con bé cứ đòi ngâm, biết làm sao?"
Dân làng miệng cười khen "Văn Khúc Tinh giáng trần", nhưng vừa quay lưng đã ch/ửi:
"Thơ với phú linh tinh! Hổ Ly Đông dễ bị lừa. Xem đi, sau này gà bay trứng vỡ!"
Tẩu tử ngoảnh lại phun nước miếng:
"Loan Nhiên! Sau này thành tài, còn nhớ cửa nhà anh chị chứ?"
"Dù thành công hay thất bại, em vẫn phụng dưỡng anh chị."
Lời chân tình, nhưng Tẩu tử cười khẽ, không rõ tin hay không.
"Nuôi mày một đứa bằng người ta cả lứa. Hiếu thuận không cần, học không xong thì da mày không còn!"
Nàng bước đi trước, cuốn theo luồng gió. Gió thổi tan mây m/ù ưu tư chất chứa trong lòng thiếu nữ.