“Học buôn tốt, sau này A Nương cũng được nhờ con mà hưởng phúc.”
A Nương thường lấy câu nói ấy ra đùa với ta.
Bùi tướng quân lại phản đối, nói từ xưa đến nay trọng nông ức thương, học buôn b/án là con đường chẳng đáng theo.
Ông xoa đầu ta, giọng đầy tâm tư: “Sau này nhất định sẽ tìm cho con một nhà tử tế.”
A Nương đỏ mặt cãi lại: “Dưới gầm trời này, đâu chẳng là đất vua. Dưới chốn cấm thành, đâu chẳng là dân vua. Sao đến tay ngài lại phân chia cao thấp?”
Đó là câu nói văn vẻ nhất của A Nương từ trước tới giờ.
Bà vốn đọc sách thông thạo, chỉ vì gia biến nên mới phải làm thợ thêu.
Bùi tướng quân là kẻ sĩ.
Đa tình đa số là văn nhân, nghĩa khí thường thấy nơi hàng thịt chó.
Dẫu nhà tử tế đến mấy, ta cũng chẳng muốn. Dẫu đàn ông quyền thế đến đâu, ta cũng chẳng thèm.
Giữa tháng tư, Bùi Tề Ngọc đ/á/nh trận trở về.
Da hắn đen hơn, vạm vỡ hơn, trên tay thêm vô số vết thương mới, chồng chất lên s/ẹo cũ, nhìn mà đ/au lòng.
Bùi Tề Ngọc cười nhạt gọi ta là “tiểu khốc miêu”.
Ta hít một hơi, cố chống chế: “Cát bay vào mắt thôi.”
Chiều hôm ấy, hắn thay thường phục đến Đông Cung, muốn gặp Bùi Thư.
Nhưng chẳng qua được cổng.
Bùi Thư lấy cớ bệ/nh tật, sai người đuổi về.
Ba ngày sau khi bị cự tuyệt, hắn vung ki/ếm chỉ vào đầu Bùi tướng quân, mặt mày đ/au đớn, chất vấn vì sao giấu diếm?
Ta biết, hắn oán h/ận Thái tử điện hạ đã có người thương, còn cha mình lại im hơi lặng tiếng.
Lưỡi ki/ếm cà trên đ/á xanh, vang lên tiếng lanh canh, cùng cơn thịnh nộ của Bùi Tề Ngọc tựa tiếng tru trời của chúa tể bóng đêm.
Hắn gào lên muốn gi*t đôi gian phu d/âm phụ.
Bùi tướng quân đ/ấm ng/ực kêu trời, liên thanh m/ắng “nghịch tử”.
Rốt cuộc Bùi Tề Ngọc chẳng ra khỏi cổng, A Nương liều mạng ngăn cản.
Hắn không thể đem mạng trăm hộ trong phủ Bùi đặt vào chỗ nguy.
Từ đó, Bùi Tề Ngọc mang theo sát khí, mỗi lần gặp mặt đều xoa xoa lưỡi trường ki/ếm.
Như đang mưu tính điều gì.
Tháng năm, Bùi Tề Ngọc cưới Tống Vãn Nguyệt, hai họ Bùi - Tống kết thông gia.
Bùi Thư rốt cuộc vẫn không đến, sai người đem ba rương lễ cùng một phong thư.
Nét chữ thoa hoa nhỏ xinh, chính là thư tay của Bùi Thư.
Thư dài vài trang, toàn chuyện vặt vãnh thường ngày.
Bùi Tề Ngọc cầm thư, đọc đến đoạn nào lại khẽ cười.
Chính nhờ lá thư này, chúng tôi đều tưởng Bùi Thư ít nhất hiện tại vẫn an toàn, Thái tử điện hạ còn kiêng dè thế lực họ Bùi.
20
Từ khi Tống Vãn Nguyệt vào phủ, cuộc sống của ta bớt nhàm chán.
Chúng tôi ra ngoại ô thả diều, dạo phố son phấn lụa là, cùng nhau dạo thuyền hồ.
Thoắt cái đã vào hạ.
Lòng ta vẫn canh cánh muốn đưa sen cho Bùi Thư.
Cái canh cánh ấy kéo dài đến cuối tháng sáu.
Ta nằm trên sập của Tống Vãn Nguyệt, mặc nàng xoa bóp thái dương.
Ta buồn bã kể về hồ nước phía nam thành, nước biếc như ngọc, mỗi năm hoa sen nở rộ, nhìn thôi đã thấy yêu kiều.
Những chiếc gương sen ẩn trong cánh hoa, xanh biếc tươi mát khác phàm.
Nàng chọc trán ta, cười như hoa nở: “Đồ tham ăn!”
Ta nhắm mắt, không nói thêm, chìm vào giấc ngủ.
Ta mơ thấy Bùi Thư, nàng mỉm cười gọi Dĩ Ninh.
Nàng nói, nàng đi rồi.
Ta hỏi đi đâu?
Nàng không đáp lại.
Chân trời mờ ảo, bóng hình yểu điệu khuất vào màn trắng xóa, chớp mắt đã tan biến.
Ta tỉnh dậy trong nước mắt.ṱũ̂³
Ngoài trời lúc nào mưa lâm thâm, tiếng tí tách khiến lòng thêm rối.
A Nương sai người gọi ta, đại tỳ nữ của bà mắt đỏ hoe như khóc lóc.
Ta nén trái tim bồn chồn, bước ra tiền viện.
Nghe tin “Thái tử phi băng thệ”, A Nương khóc đến ngất đi.
Bùi tướng quân mặt lộ vẻ xúc động, mắt le lói nước, lẩm bẩm: “Thư Nhi…”
Nhưng ta chỉ thấy hắn đáng gh/ét.
Gặp Bùi Tề Ngọc lúc ấy, hắn người ngợm dơ dáy, mặt mày dính bùn đất.
“Thư Nhi nàng…”
Đôi mắt ấy, ta không dám nhìn thêm lần nữa.
Cổ họng như đúc chì ngàn cân, nghẹn lại không thốt nên lời.
“Ta đã biết trước, đáng lẽ phải biết sớm hơn…”
Hắn ngẩng đầu nhìn trời m/ù sương, mặc mưa gió dập dồn, cuốn theo nỗi nhớ cùng h/ận ý.
Ta lau mặt, bước ra ngoài.
Đi hái sen.
21
Hoàng đế vỗ về họ Bùi, thăng chức cho Bùi Tề Ngọc, binh quyền của Bùi tướng quân giao vào tay hắn.
Cuối cùng hắn cũng ngồi lên ghế đại tướng quân.
Bùi Tề Ngọc lại trở về tính cách lúc ta mới vào phủ.
Thiên hạ đồn hắn dùng mạng em gái đổi lấy địa vị này.
Bùi Thư mất chưa đầy nửa tháng, hắn đã có thể ngồi tửu lầu cười nói vui vẻ.
Quả là mặt người dạ thú.
Ta lắc đầu, không phải vậy.
Hắn luôn uống say khướt, không biết bao đêm nằm vật ở Thu Phong Uyển, vừa khóc vừa cười gọi tên nhỏ Bùi Thư.
Ban đầu, Tống Vãn Nguyệt còn cố kéo hắn về phòng, dần đà mệt mỏi, đành lấy chăn đệm nằm dưới đất cùng hắn.
Về sau, Bùi Tề Ngọc ít bén mảng đến Thu Phong Uyển.
Hắn sai người khóa ch/ặt viện tử, chỉ còn ta lén trèo vào, chăm sóc đám hoa cỏ chưa tàn.
Năm Bùi Thư mất, ta vừa tròn mười lăm.
Thoắt đã hai năm trôi qua.
Thân thể Bùi tướng quân suy yếu hẳn, thường xuyên ảo giác.
Ta cũng có cháu gái nhỏ, tên Bùi Niệm Thư, nhỏ là Thư Nhi.
Ngày Thư Nhi đầy tuổi, phủ mời hát bội cùng một nhạc sư.
Tuồng hát rất hay, mọi người cười nói vui vẻ, ta bế Thư Nhi đùa nghịch.
Đến lượt nhạc sư gảy đàn, Bùi tướng quân đột nhiên khóc lớn, chỉ lên đài: “Thư Nhi, là cha hại con!”
Nhạc sư đ/ứt dây đàn, ôm đàn ngơ ngác nhìn A Nương, nhìn chúng tôi.