Năm thứ hai mùa xuân, kỳ thi Hội do Thánh thượng thân chủ đề mở ra một lần nữa long trọng khai mạc.
Lấy bài học xưa làm gương, lần này tất cả thí sinh tham dự đều được Hộ bộ kiểm tra hộ tịch, điểm danh số người. Đề thi được niêm phong bí mật tại Hàn Lâm viện cho đến trước ngày thi một ngày. Vào ngày thi, vị chủ khảo chính là nguyên lão đức cao vọng trọng.
Tống Cảnh Lễ xuất sắc giành giải đầu. Tháng tư cùng năm, điện thi do Thánh thượng chủ trì bắt đầu.
Thánh thượng ấn tượng sâu sắc với Cảnh Lễ, đặc biệt chọn mấy đề thi lạ để thử tài.
Cảnh Lễ ứng đối trôi chảy.
Kinh thành đều biết danh Cảnh Lễ, một thời vinh quang vô hạn, vàng bạc gấm vóc chất đầy nhà.
Tình nghĩa giữa Cảnh Lễ và Xuân Lan cũng được truyền tụng khắp nơi. Sách chép rằng: "Thà làm thiếp nhà họ Tống, chẳng thèm làm dâu cửa cao".
Thiên hạ đều biết Xuân Lan hiền lành dễ ở, lại là chính thất không sinh nở, ngày càng nhiều quý nữ các gia đình danh giá tranh nhau đến kết thân.
Tam tiểu thư đích nữ của Lại bộ Thượng thư Điền đại nhân cũng hạ mình, nguyện làm thiếp cho Cảnh Lễ, khiến hai người họ lo lắng vô cùng.
Nhà họ Điền có ba gái một trai, ông ta làm quan nhiều năm, con mắt nhìn người vô cùng sắc sảo. Hai con gái trước gả cho những gia đình tuy chức quan không cao nhưng gia phong thuần hậu, con gái về nhà chồng được trọng vọng, sống hạnh phúc.
Lần này vì hạnh phúc của tam nương, ông ta lại đặt cược vào Cảnh Lễ.
Ông ta nhận định Cảnh Lễ ôn nhu nhã nhặn, sau này trong triều tất phải nương tựa nhạc gia, lại thấy rõ sự hy sinh của Xuân Lan cho chồng. Nàng thấu tình đạt lý, vì việc nối dõi tông đường nhà Tống, tuyệt đối không dám nửa lời phản đối.
Nhưng ta là ai? Ta xuất thân nơi thôn dã, ngày thường tưới rau trồng đậu còn có thể hét vang với người khác. Ta đâu cần mặt mũi?
Việc này ta giỏi lắm.
Ta mang theo nan tre cành dâu, trà nước điểm tâm ngày ngày đến phủ Thượng thư.
Đến nơi liền chọn chỗ ngồi, lôi đồ ra đan giỏ. Từng chiếc nan tre dưới tay ta nở hoa kết nụ, miệng cũng không ngừng nghỉ.
Khi thì tán gẫu với tỳ nữ trong phủ, lúc lại dò hỏi gia đinh về gia nghiệp phủ Thượng thư. Mỏi mồm lại lấy hạt dưa lạc ra nhấm nháp.
Ăn vung vãi khắp nơi, khiến người ta phải dọn dẹp.
Đến bữa ăn ta cũng lì không đi, nhai tóp tép, húp súp xì xụp, ăn xong còn lấy khăn tay của tam tiểu thư lau dầu mỡ.
"Cô nương này mặt mũi phúc hậu, đến nhà ta thật là phúc phần".
Tam tiểu thư sợ hãi rút tay lại.
Ban đầu, tỳ nữ trong phủ còn cung kính gọi ta "Tống lão phu nhân".
Về sau họ chỉ trỏ: "Bà già họ Tống lại đến rồi".
Tam tiểu thư khóc lóc, nhất quyết không chịu gả, nói rằng mẹ chồng là đàn bà quê mùa, sau này ắt bị uất ức.
Cô bé ngốc ơi, ta đang giúp cô đấy. Có gia thế dung mạo hơn người, cần gì phải chen vào cuộc đời kẻ khác?
Xuân Lan cũng khuyên: "Mẫu thân hà tất vì chúng con mà hủy danh tiếng? Như thế sau này làm sao giao thiệp với các phu nhân trong thành?"
Ta nghĩ đơn giản: vốn dĩ ta chỉ là kẻ đan giỏ, chẳng màng ép mình vào vòng xa hoa không thuộc về mình.
Ngày trước, lão già còn sống, ai chẳng khen nhà họ Tống cần cù chất phác, sinh được con trai hiếu thuận.
Nhưng lão ch*t đi, Cảnh Lễ suýt không được đi học, con dâu suýt ch*t vì bệ/nh.
Ta còn màng gì danh hư? Sống còn quan trọng hơn tất cả. Chỉ có sống mới làm nên chuyện.
Sống cho tốt, sống cho trọn, đó mới là thể diện lớn nhất.
Lần này là cô Điền, sau còn có cô Lý, cô Lưu. Chỉ có ta liều mặt dày mới được yên thân.
Nhìn Cảnh Lễ và Xuân Lan trải bao gian truân, ta đã nửa chân vào đất, được giúp chúng đôi chút đã là phúc phần.
Ta cam lòng hưởng nhận.
Ngày yết bảng, ta cùng Xuân Lan đều mặc đồ đỏ.
Giờ đây phong bình lãng tĩnh, lại được dưỡng dục chu đáo, Xuân Lan mặt đã đầy đặn hơn. Dù gặp gió vẫn ho, nhưng thân thể đã khỏe hơn trước nhiều.
Cảnh Lễ bảng vàng đề danh, đỗ Bảng Nhãn.
Cảnh Lễ cưỡi ngựa cao, được người người áp tùng đi khắp kinh thành.
Chiếu chỉ của Thánh thượng cũng ban xuống: Nhậm chức Thị giảng Hàn Lâm viện, tuy chỉ lục phẩm nhưng chúng tôi đã qua khổ tận cam lai.
Cảnh Lễ và Xuân Lan lại tổ chức hôn lễ, mời Thường Diệp đại nhân làm chứng hôn.
Ông ta lắc đầu nói: "Tiểu tử nhà ngươi phúc khí dày, nếu sau này dám bạc đãi Xuân Lan, ta quyết không tha".
Xuân Lan khoác hồng trang, càng tôn vẻ thanh tú đoan trang.
Ta chải tóc cho nàng, tiễn nàng xuất giá, vừa là mẹ chồng, lại như mẹ đẻ.
"Lược thứ nhất chải đến ngọn tóc."
"Lược thứ hai chải đến bạc đầu răng tóc."
"Lược thứ ba cháu chắt đầy nhà."
Ta cảm nhận được sự r/un r/ẩy và giọt lệ nóng hổi của Xuân Lan.
Đêm ấy, trăng sáng ngập sân, tình yêu tràn đầy.
Ba năm sau khi thành thân, lũ lụt Kỳ Châu bùng phát, Cảnh Lễ phụng mệnh đi c/ứu tế.
Gặp được hai chị em mồ côi, cha mẹ bị lũ cuốn, hai đứa ôm nhau bám vào khúc gỗ trôi.
Cảnh Lễ vớt lên đưa về kinh nuôi nấng.
Bé trai chừng ba bốn tuổi, đặt tên Thanh Uẩn. Bé gái mới hơn một tuổi, gọi là Thanh Từ.
Nhập tịch họ Tống, sau này vào gia phả.
Không rõ Thanh Từ vì bị kích động trong trận lũ hay bẩm sinh khiếm khuyết, mãi không biết nói.
Xuân Lan lòng mẹ dạt dào, chẳng màng những điều ấy, hết lòng chăm sóc đôi trẻ.
Lại một mùa xuân tới, cỏ non lộc biếc, hoa đua nở.
Hai đứa trẻ cùng trưởng tử Thường Hứa nhà Thường Diệp đại nhân thả diều. Cảnh Lễ và Thường Diệp đàm luận cổ kim.
Nhắc chuyện xưa, Xuân Lan cảm khái: "Ngày ấy lang quân một câu nói, thiếp thật đã chịu đựng bao năm, nay mới được thấy cảnh xuân tươi đẹp."
Dưới hiên, ấm trà nghi ngút khói. Hương trà thoảng vào mũi.
Thanh Uẩn chạy mệt đến xin trà, sẩy chân ngã vào lòng Xuân Lan.
Thanh Tữ chu môi kéo anh ra, bỗng cất tiếng: "Mẹ..."
Xuân Lan mừng rỡ: "Thanh Từ gọi gì nào? Gọi lại đi con."
"Mẹ."
Nó gọi rành rọt, lại chỉ bụng Xuân Lan: "Em bé..."
Tất cả chúng tôi kinh ngạc.
Xuân Lan vừa mừng vừa trách.
"Con này, đừng nói bậy. Vừa biết nói đã trêu mẹ."
"Nhưng nói cũng đúng, con từ bụng mẹ mà ra mà..."
Trong tiếng cười đùa, lời Thanh Từ theo gió xuân bay về chín tầng mây. Chẳng ai suy xét sâu, cũng chẳng để lòng.
Với chúng tôi, hiện tại đã là cảnh đẹp nhất.
Ta bỗng nhớ ông già ch*t sớm da diết.
Này nhé, giờ các con đều sống tốt, gia đình êm ấm.
Ta cũng khỏe, chỉ hơi nhớ ông thôi.
HẾT