Đường Ấp Phụ khuyên ông:

"Nếu ngài lưu lại Tây Vực, cũng có thể an thân. Đại Nguyệt Chi tuy không muốn b/áo th/ù, nhưng vẫn có thể dung nạp ngài, tránh được hiểm nguy đ/ao ki/ếm."

Trương Khiên lắc đầu, ánh mắt kiên nghị:

"Không, nếu ta ở lại đây, sẽ phụ lòng hoàng thượng giao phó. Biên dân nhà Hán vẫn bị Hung Nô ứ/c hi*p, nếu tin tức không truyền về, Tây Vực mãi mãi là vùng đất ch*t."

Khi đi đến đất Khương, đoàn của họ bị trinh sát lạ theo dõi. Các bộ lạc Khương tộc vốn đa nghi, nội chiến liên miên, đặc biệt cảnh giác với người ngoài. Khi Trương Khiên dẫn đoàn bước vào thung lũng, tiếng tù và bỗng vang lên khắp nơi, hàng chục người Khương cầm giáo cung tên ùa ra.

"Dừng lại!"

Tiếng quát bằng tiếng Khương vang vọng trong núi.

Trương Khiên vội bước lên trước, giơ cao ấn tín nhà Hán, lớn tiếng biện giải:

"Ta là sứ giả nhà Hán, phụng mệnh thiên tử đi sứ Tây Vực!"

Nhưng người Khương không vì thế mà buông lỏng. Tin tức đã lan truyền khắp nơi - Hung Nô và Khương tộc có qu/an h/ệ thông gia, hai bên thường xuyên kết minh. Thân phận của Trương Khiên không những không thuyết phục được họ, ngược lại càng tăng thêm nghi ngờ: Một người Hán bị Hung Nô giam giữ nhiều năm, lại từ phương Tây trở về, liệu có phải là gián điệp?

Thế là ông cùng tùy tùng lại một lần nữa bị giải đi, lần này không phải đến đại doanh Hung Nô với rừng kỵ binh, mà là những thành lũy thô sơ và nhà đ/á.

Những năm tháng ở đất Khương vô cùng khốn khó. Nơi đây còn nghèo khó hơn Hung Nô, bầy gia súc thưa thớt, chiến tranh liên miên. Ông buộc phải cùng bộ lạc chăn thả, học cách tìm chồi non trên đồng cỏ cằn cỗi cao nguyên để nuôi cừu. Ngày tháng trôi qua, từ sứ giả thiên tử, ông trở thành nô lệ chăn cừu áo vải thô. Nhưng ông chưa từng từ bỏ ý chí trong lòng. Ông biết rằng mỗi ngày nhẫn nhục chính là để chờ ngày trở về Trường An.

Trong những năm tháng ấy, ông quan sát thấy người Khương tuy dũng mãnh nhưng vì các bộ lạc chia rẽ, khó đoàn kết, thường vì tranh giành đồng cỏ mà tàn sát lẫn nhau. Ông thậm chí bị buộc làm phiên dịch và hòa giải, dùng hiểu biết tiếng Hung Nô và Hán ngữ để làm trung gian trong giao dịch giữa người Khương và thương nhân Tây Vực. Nhờ vậy, ông giữ được mạng sống.

Thời gian lại trôi qua vài năm. Vào một mùa thu nọ, bộ tộc Khương và lân bang bùng phát xung đột lớn, hàng loạt thanh niên bị điều đến biên giới. Trong thành trại trống vắng, phòng thủ lỏng lẻo. Trương Khiên nhận ra cơ hội ngàn năm có một.

Trong một đêm đen như mực, ông cùng Đường Ấp Phụ và mấy người nô lệ Khương đã kết giao, lén lút rời khỏi cổng trại. Họ men theo thung lũng tiến về phía trước, dưới chân là dòng suối lạnh giá, tiếng tru của sói xa xa như thúc giục. Đã mất ngựa, họ chỉ có thể dùng đôi chân vượt qua sườn bắc Lũng Sơn. Gió lạnh c/ắt da, tuyết ngập đầu gối, sau vài ngày, những người đi cùng lần lượt gục ngã. Trương Khiên nghiến răng lôi Đường Ấp Phụ đi, trong lòng chỉ còn một suy nghĩ: Phương Đông, phương Đông! Cuối cùng, khi bước vào biên giới Lũng Tây, thấy cờ Hán phấp phới đằng xa, Trương Khiên suýt ngã quỵ. Binh sĩ chạy đến đỡ ông dậy. Khoảnh khắc ấy, ông mới thực sự nhận ra: mình đã rời Trường An tròn mười ba năm.

Khi Trương Khiên trở về cổng thành Trường An, gió thu hiu hắt, lá vàng phủ kín mặt đất. Dân chúng hai bên đường ngạc nhiên nhìn người trở về đầy bụi đường, thân hình g/ầy guộc. Tóc mai ông đã điểm bạc, áo quần rá/ch rưới, nhưng vẫn ôm ch/ặt cuộn bản đồ.

Trong cung Vị Ương, Hán Vũ Đế ngồi yên trên điện, nghe Trương Khiên thuật lại hành trình mười ba năm: sự giam lỏng của Hung Nô, thái độ lạnh nhạt của Đại Nguyệt Chi, sản vật và lãnh thổ các nước Tây Vực, cảnh khốn cùng và sự phân tán ở đất Khương. Giọng ông khàn đặc nhưng kiên định, như trút hết bao năm dồn nén.

Quần thần trong điện kinh ngạc. Dù Trương Khiên không hoàn thành nhiệm vụ liên minh với Đại Nguyệt Chi, nhưng đã mang về cho nhà Hán thông tin vô giá: ngựa huyết hãn Đại Uyên, thương đạo An Tức, kỳ trân Ấn Độ, cùng tin đồn về "Đại Tần" phương xa.

Những kiến văn này đủ làm thay đổi nhận thức của nhà Hán về thế giới.

Hán Vũ Đế ánh mắt rực lửa, tự mình bước xuống điện, đỡ vị sứ giả trải bao thăng trầm dậy. Ngài trầm giọng:

"Khanh tuy không liên minh được, nhưng đã mở cho trẫm cánh cửa Tây Vực."

Từ đó, tên tuổi Trương Khiên gắn liền với chính sách Tây Vực của nhà Hán. Mỗi bước chân ông đi qua đã trở thành nền tảng cho Con đường Tơ lụa đời sau.

Khoảnh khắc ấy, ông chợt cảm thấy mọi khổ nạn không uổng phí. Mười ba năm đổi lấy con đường hy vọng xuyên Đông Tây.

Chương 5: Lập công lần nữa và thất thế

— Vinh quang và thất bại của Bác Vọng Hầu (123–121 TCN)

Năm Trương Khiên trở về, bầu trời Trường An sáng rõ hơn thường lệ. Trước cung Vị Ương, trống nhạc vang trời, bá quan tề tựu chờ đợi vị sứ giả trải mười ba năm hiểm nguy. Khi ông bước từng bước khập khiễng lên thềm điện, mọi người kinh ngạc trước dáng người g/ầy guộc và mái tóc bạc trắng, nhưng càng chấn động trước kiến văn và tin tức ông mang về.

Hán Vũ Đế Lưu Triệt đích thân trao chiếu thư vào tay ông, giọng sang sảng:

"Khanh liều ch*t mở cửa Tây Vực, thực là công lao xã tắc! Trẫm phong khanh làm Bác Vọng Hầu, thực ấp ba trăm khoảnh, để rạng danh lao khổ."

Trên điện đường, bá quan nghiêm trang. Đây là sự ghi nhận cao nhất dành cho một sứ giả. Trương Khiên cúi đầu nhận chiếu, trong lòng dậy sóng. Mười ba năm khổ nạn không uổng phí, cuối cùng ông đã dùng chính thân mình làm cầu nối giữa nhà Hán và Tây Vực.

Từ đó, ông trở thành "Bác Vọng Hầu". Tước hiệu này mang ý nghĩa vọng về Tây Vực, mở mang bờ cõi, cũng trở thành danh xưng vĩnh viễn cho hậu thế.

Nhưng sau vinh quang, trọng trách mới lại chất chồng.

Năm 123 TCN, Hán Vũ Đế lại triệu kiến Trương Khiên. Trong điện, bản đồ trải rộng, phong hỏa đài Hà Tây tẩu lang và các quốc gia quanh Thiên Sơn hiện rõ. Lưu Triệt ánh mắt rực lửa:

"Khanh đã thông thuộc các nước Tây Vực, hãy lại vì trẫm đi sứ lần nữa. Lần này không chỉ thăm hỏi, mà phải kết minh. Nếu mang được lực lượng Ô Tôn cùng đ/á/nh Hung Nô, thì biên cương phía Bắc yên ổn, Tây Vực thông suốt!"

Trương Khiên cúi mình nhận lệnh. Ông hiểu rõ, nhiệm vụ lần này khác với lần đầu - không còn là thăm dò đơn đ/ộc, mà mang theo vàng bạc, gấm vóc, châu báu, yêu cầu rõ ràng kết minh chống địch. Phái đoàn ông dẫn đầu quy mô lớn hơn, khí thế hùng dũng, mang theo thành ý và uy nghiêm nhà Hán.

Danh sách chương

Có thể bạn quan tâm

Bình luận

Đọc tiếp

Bảng xếp hạng

Thiếu gia giả thức tỉnh rồi

Chương 47
Kiếp trước, tôi vô tình biết được mình chỉ là thiếu gia giả bị ôm nhầm, còn thiếu gia thật sự là Lục Thanh - bạn cùng bàn từng bị tôi bắt nạt suốt bao năm. Tôi nhìn thấy cậu ta chẳng cần tốn chút sức lực nào cũng có thể giành được sự chú ý của người mà tôi hằng ngưỡng mộ. Tôi cũng nhìn thấy cậu ta bị tôi đá ngã, chỉ có thể liếm giày tôi, hèn mọn như một con chó. Thế nhưng khi thân phận đảo ngược, tôi lại trở thành kẻ thua cuộc thảm hại, nằm co quắp trên giường bệnh lạnh lẽo. Số tiền trên người chỉ đủ chi trả cho đêm cuối cùng. Nhận được tin Lục Thanh đính hôn với người mà tôi sùng bái nhất, ngay khoảnh khắc trút hơi thở cuối cùng…. Tôi đã thề. Nếu còn có cơ hội làm lại, tôi tuyệt đối sẽ không bao giờ dây dưa với cặp đôi khốn kiếp đó nữa.
614
3 Miên Miên Chương 12
6 Không chỉ là anh Chương 17
11 Cấm Kỵ Dân Gian Chương 12

Mới cập nhật

Xem thêm
Hoàn

Cuộc đời về già đầy những hành động kỳ quặc của Càn Long: Bi kịch của Tấn Quý nhân Vào năm Càn Long thứ 31 (1766), khi hoàng đế đã bước sang tuổi 56, một sự kiện chấn động hậu cung đã xảy ra: Quý nhân Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị - vị phi tần cuối cùng được sủng ái trong đời Càn Long - chính thức bước vào Tử Cấm Thành. Từ đó về sau, hậu cung nhà Thanh không còn một cuộc "tuyển tú" nào nữa. Nhưng chính trong giai đoạn này, một bi kịch đau lòng đã xảy ra với Tấn Quý nhân - vị phi tần trẻ tuổi nhất của Càn Long. Khi nhập cung, nàng mới chỉ là thiếu nữ 13-14 xuân xanh, trong khi Càn Long đã ở tuổi 56. Đến khi Càn Long qua đời ở tuổi 89, nàng vẫn còn rất trẻ, nhưng phải sống trong cô độc suốt phần đời còn lại. Những năm cuối đời, Càn Long trở nên vô cùng kỳ quặc. Dù tuổi cao sức yếu, ngài vẫn không ngừng tuyển mỹ nữ vào cung. Tấn Quý nhân và Lục Quý nhân chính là nạn nhân của thói háo sắc tuổi già này. Cả hai đều nhập cung khi hoàng đế đã ngoài 70 tuổi - một độ tuổi được coi là "cổ lai hy" thời bấy giờ. Đặc biệt, Tấn Quý nhân còn gánh chịu nỗi đau tột cùng khi bị Càn Long "bỏ quên" ngay sau khi nhập cung. Sử sách ghi lại rằng trong suốt 10 năm làm phi tần, bà chưa một lần được sủng ái, thậm chí không được phong tước hiệu. Mãi đến khi Gia Khánh đăng cơ, bà mới được tấn phong làm "Tấn phi", nhưng đó chỉ là danh hiệu an ủi cho một cuộc đời lỡ dở. Bi kịch của Tấn Quý nhân phản ánh rõ nét sự tàn nhẫn của chế độ cung tần thời phong kiến. Những thiếu nữ xuân thì bị biến thành món đồ chơi cho dục vọng của bạo chúa già nua, để rồi phải sống kiếp "góa phụ khi còn trẻ" trong bốn bức tường lạnh lẽo của Tử Cấm Thành. Câu chuyện của nàng là lời tố cáo đanh thép nhất cho sự phi nhân tính của chế độ đa thê trong lịch sử phong kiến Trung Hoa.

Chương 6
Hoàng đế Càn Long, suốt đời tự xưng "Thập Toàn Lão Nhân", 60 năm đế vương quyền thế ngập trời. Năm 1796, hắn thoái vị nhường ngôi cho Gia Khánh, nhưng vẫn nắm chắc quyền lực thực tế, trở thành điển hình độc tài "thoái vị nhưng không buông quyền" trong lịch sử. Vị lão nhân 86 tuổi này vẫn một tay khống chế triều chính và hậu cung, ngay cả việc tuyển tú cũng thành công cụ để Gia Khánh lấy lòng phụ hoàng. Phú Sát thị mới 13 tuổi, vốn tưởng sẽ thành phi tần của Gia Khánh, nào ngờ bị ép vào lòng Càn Long, phong làm Tấn Quý nhân. Cuộc hôn nhân chênh lệch 75 tuổi phi lý này chỉ duy trì vỏn vẹn nửa năm thì Càn Long băng hà. Từ đó, Tấn Phi bị giam cầm trong thâm cung, cô độc không nơi nương tựa, đến năm 37 tuổi thì qua đời vì bệnh. Trùng hợp thay, năm nàng mất lại giống hệt năm mất của Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu - tình yêu suốt đời của Càn Long. Hiếu Hiền là bạch nguyệt quang của hắn, còn Tấn Phi chỉ là vật thay thế cuối cùng. Cuốn sách này sẽ dùng ngòi bút tiểu thuyết hóa đưa bạn trở về cuộc tranh quyền đoạt thế hậu cung những năm cuối đời Càn Long - từ khát vọng quyền lực của "Thập Toàn Lão Nhân" đến cuộc đời bi thương của Tấn Quý nhân 13 tuổi, phơi bày sự thật tàn khốc về số phận người phụ nữ dưới ách hoàng quyền.
Cổ trang
0