Trịnh Kinh khoác áo lông ngồi trước án thư, hai bên tóc mai đã điểm sương. Đọc xong chiếu thư, hắn bỗng cười khẽ, ném văn quyển vào lò lửa. Ánh lửa chiếu rọi khuôn mặt càng thêm tiều tụy.
"Vương thượng," Trần Vĩnh Hoa khẽ nói, "có lẽ..."
Trịnh Kinh giơ tay ngăn lại, ánh mắt sắt đ/á: "Mãn Thanh muốn đầu gối chúng ta, không phải mạng sống."
Sau lần thứ bảy cự tuyệt hàng, hắn không còn tự tiếp kiến sứ thần. Bệ/nh tật đeo bám, tiếng ho vang trong đêm. Ngự y chẩn đoán tích lao thành tật, khuyên hắn bớt lao tâm. Nhưng ngày ngày hắn vẫn xem quân báo, vẫn lên lầu ngắm biển trong những đêm gió gào sóng dữ.
Trong đảo dần dậy tiếng oán than, đêm khuya thậm chí có kẻ dán giấy "khuyên hàng". Trịnh Kinh nhìn thấy, chỉ lặng lẽ vò nát tờ giấy, ném vào ngọn nến.
Năm Khang Hi thứ hai mươi, triều đình nhà Thanh cử sứ giả lần thứ chín, mang theo chiếu thư tay hoàng đế. Sứ giả đứng ngoài thành Xích Kham cao giọng tuyên đọc: "Nếu không hàng, sang năm đại quân vượt biển, tận gốc nhổ cỏ!"
Lúc ấy, Trịnh Kinh đã bệ/nh vào giai đoạn cuối, nằm liệt giường. Quần thần lo lắng, sợ hắn d/ao động.
Nhưng hắn gượng dậy, cầm bút viết lên lụa tám chữ: "Không cạo tóc, không đổi y phục, không cải chế độ, không khuất chí."
Nét chữ r/un r/ẩy, nhưng từng chữ như mũi dùi.
Hộp gấm phong kín, đưa vào hậu điện từ đường. Quần thần thấy vậy, không ai không rơi lệ.
Mấy tháng sau, Diên Bình Vương Trịnh Kinh trút hơi thở cuối trên giường bệ/nh. Trước khi mất, hắn gọi thái tử Trịnh Khắc Sảng, giọng yếu ớt mà rành rẽ: "Nhớ lấy, Đài Loan là cội rễ. Cội mất, họ Trịnh diệt vo/ng."
Ánh mắt hắn lần cuối hướng ra ngoài cửa sổ, tiếng sóng vẫn vỗ vào bờ đ/á, y như thuở thiếu thời. Chỉ là, đời này đã hết sức vung tay hiệu triệu.
Tin truyền ra, toàn đảo bách tính tự phát tổ chức tế biển. Ngư dân thả tre xuống biển, khắc tám chữ - "Không cạo tóc, không đổi y phục, không cải chế độ, không khuất chý".
Gó cuốn sóng dâng, những tấm tre trôi xa, tựa hồ hóa thành khúc trường ca, theo sóng vọng mãi không dứt.
Sinh mệnh Trịnh Kinh dừng lại sau chín lần cự tuyệt, nhưng ý chí kiên cường ấy vẫn mãi vang vọng trong tiếng sóng hòn đảo quý, truyền đời này sang đời khác.
Chương 6 | Rư/ợu cạn anh hùng già
Đêm đông Đài Nam, gió lạnh từ cửa biển ùa về, thổi khiến mái ngói thành Xích Kham rên rỉ. Tận cùng phủ quận vương, nến lung lay, trên án trải giản trúc cùng quân báo, góc bàn đ/è một bầu nữ nhi hồng chưa mở. Trong hương trà thoảng vị th/uốc, tựa như phương th/uốc cuối cùng số phận dành cho anh hùng.
Trịnh Kinh khoác áo lông cáo nặng trịch, ngồi yên trước án. Mười mấy năm chinh chiến giữ đảo khiến gương mặt tuấn tú ngày nào giờ đầy vết hằn, đôi mắt vẫn sáng nhưng chất chứa mệt mỏi. Hắn với tay chạm bầu rư/ợu, nhưng mãi không nâng chén.
Ngoài phòng vang tiếng bước lính gác, một hồi gấp, một hồi nặng nề. Trần Vĩnh Hoa đẩy cửa vào, khẽ bẩm: "Vương thượng, cửa biển Bành Hồ lại có thuyền địch dò xét. Tuy chưa đổ bộ, nhưng dân tình hoang mang."
Trịnh Kinh ngẩng mắt, ánh nhìn lạnh như ánh biển: "Kế của Thi Lang."
Nghe đến tên này, trong phòng chợt lặng im. Cựu bộ hạ cùng uống gió biển năm xưa, giờ đã thành đề đốc thủy quân triều Thanh. Tin phản hàng như lưỡi d/ao lạnh đ/âm vào tim Trịnh Kinh.
"Năm đó cùng ngồi bên lửa trại, hắn thề sống ch*t báo quốc." Trịnh Kinh lẩm bẩm, giọng như sóng ngầm. Trần Vĩnh Hoa không dám đáp, chỉ cúi đầu.
Áp lực trên đảo ngày càng đ/è nặng. Từ khi mất Kim Hạ, chính quyền họ Trịnh hoàn toàn lơ lửng ngoài biển. Đại quân triều Thanh ngày đêm diễn tập, hạm đội như tường sắt tuần tra eo biển Bành Hồ, ng/uồn cung gạo, mía, muối sắt trong đảo dần cạn kiệt. Chợ búa, dân chúng oán than vì thuế má.
Trong phủ Diên Bình, tướng sĩ cũng thường xì xào bàn tán.
Năm đó trùng dương, phủ bày tiệc chiêu đãi. Rư/ợu qua ba tuần, lời hùng tráng năm xưa chẳng ai nhắc. Kẻ cúi đầu nhai thịt khô, người ngây người nhìn chén rư/ợu.
Một hiệu úy râu hoa râm bỗng đặt đũa xuống, giọng khàn đục: "Vương thượng, hay là... theo gương Triều Tiên xưng thần? Giữ được dân, giữ được mạng."
Đại sảnh ch*t lặng. Ánh lửa soi rõ từng khuôn mặt, lộ rõ nỗi do dự và kh/iếp s/ợ.
Trịnh Kinh từ từ ngẩng lên, ánh mắt lạnh lùng không gi/ận dữ. Hắn chỉ nâng chén rư/ợu, ngửa cổ uống cạn. Đặt chén xuống, giọng trầm mà kiên quyết: "Mãn Thanh muốn không phải mạng sống, mà là đầu gối chúng ta."
Cả tiệc im phăng phắc, chỉ có gió biển lùa qua khe cửa, thổi tắt một góc nến.
Đêm khuya, tiếng ho lại dậy, từng tiếng chói tai. Ngự y chẩn đoán tích lao thành tật, khuyên hắn tĩnh dưỡng kiêng rư/ợu. Nhưng cứ đêm nào gió gào sóng dữ, hắn vẫn ngồi một mình bên cửa sổ, uống rư/ợu nhìn biển.
"Phụ vương năm xưa nói, Đài Loan là cội rễ." Hắn lẩm bẩm, nâng chén hướng biển. Rư/ợu rớt xuống, không khác gì nước mắt.
Quân báo vẫn chất đống: Nam cảnh điền trang mất mùa, Lộc Cảng đường buôn tắc nghẽn, binh lính đào ngũ. Mỗi tờ giấy như ngàn cân đ/è nặng ng/ực.
Những năm Khang Hi, triều Thanh chín lần sai sứ khuyên hàng, hơn mười năm không dứt. Lần cự tuyệt đầu đầy nhiệt huyết, về sau chỉ còn nỗi đắng chát.
Lần thứ chín sứ giả đến, hắn đã bệ/nh nguy kịch. Quần thần lo lắng, sợ hắn d/ao động.
Thế nhưng, trên giường bệ/nh hắn gượng dậy, tự tay cầm bút. Nét bút r/un r/ẩy, nhưng viết tám chữ: "Không cạo tóc, không đổi y phục, không cải chế độ, không khuất chí."
Tám chữ này, nặng tựa khóa sắt, khóa ch/ặt số phận hắn cùng Đài Loan.
Mùa xuân năm Càn Long thứ mười ba, bệ/nh tình chuyển biến x/ấu. Trước lúc lâm chung, hắn gọi thái tử Trịnh Khắc Sảng, giọng yếu ớt mà kiên quyết: "Bất kể ngoại giới ép buộc thế nào, nhớ lấy - Đài Loan là cội rễ. Cội mất, họ Trịnh diệt vo/ng."
Dứt lời, hắn nhìn ra chân trời biển xa. Tiếng sóng vẫn vỗ bờ đ/á, y như thuở thiếu thời.
Một giọt rư/ợu từ án thư rơi, lan dọc vân gỗ. Trịnh Kinh khép mắt, như trút bỏ áo giáp nặng nề.
Tin Diên Bình Vương băng hà truyền khắp đảo. Dân chúng tự phát tổ chức tế biển, tấm tre trôi theo sóng, khắc tám chữ: "Cô thủ bảo đảo, tử bất đê đầu."
Sóng biển cuộn trào, những tấm tre trôi xa, tựa hóa thành khúc trường ca, vang mãi không dứt.
Rư/ợu cạn, anh hùng già cỗi; nhưng ý chí bất khuất ấy, mãi ngân vang trong gió biển, truyền đời này sang đời khác.