Hành động này được xem như bước ngoặt lịch sử - lần đầu tiên triều đình Trung Nguyên hoàn toàn đưa thảo nguyên phía bắc vào hệ thống cai trị, thay vì chỉ dựa vào hòa thân hay cống nạp. Gió thảo nguyên từ nay không còn thuộc về thế lực du mục hùng mạnh, mà thuộc về vị Thiên Khả Hân đang ngự trị trong cung điện Trường An. Vào khoảnh khắc này, Lý Thế Dân đã hoàn tất sự kiềm tỏa và thống trị thảo nguyên.
Chương 7: Chiến lược đa chiều và ảnh hưởng lâu dài của Lý Thế Dân
Gió sa mạc gào thét mang theo dư vang kỵ binh viễn cổ. Lý Thế Dân đứng trước thềm điện Hàm Nguyên ở Trường An, ánh mắt thâm trầm nhìn sứ giả thảo nguyên từ phương xa tới. Hắn biết, khoảnh khắc này không chỉ là nghi lễ thần phục giữa Đại Đường và Mạc Bắc, mà còn là lúc tấm lưới trời do hắn dệt nên cuối cùng đã khép kín.
Thảo nguyên vốn dĩ hùng mạnh, bao đời hoàng đế Trung Nguyên mơ ước thu phục nhưng hiếm ai thành công. Hán Vũ Đế hao binh tổn tướng, dù phá được Hung Nô nhưng khiến quốc khố trống rỗng, bách tính khốn khổ. Tới Đông Hán, chính sách ki mi thành lời nói suông, lửa chiến ch/áy không ngừng nơi biên cương. Từ Ngụy Tấn trở đi, kỵ binh Hồ ào ạt nam hạ khiến triều đình Trung Nguyên khốn đốn. Lý Thế Dân hiểu rõ, nếu chỉ dùng vũ lực áp chế, sớm muộn sẽ nhận trái đắng. Muốn giải quyết tận gốc vấn đề thảo nguyên, phải hiểu quy luật nơi đây hơn đối thủ, dùng bàn cờ cao hơn chiến trường để thuần phục.
Bởi vậy, hắn vừa tuốt ki/ếm lại vừa thu đ/ao. Diệt Đông Đột Quyết, hắn dùng tốc độ chớp nhoáng phá tan đại doanh của Hiệt Lợi Khả Hân, khắc tên "Thiên Khả Hân" vào sử sách. Đó là sự răn đe, tín hiệu đúc bằng m/áu và sắt. Nhưng sau khi Tiết Diên Đà trỗi dậy, hắn không lặp lại con đường chinh ph/ạt cũ, mà chọn phong tước, liên minh, chia rẽ, phân hóa, đưa các bộ lạc thảo nguyên vào trật tự Đường triều.
Đây chính là chiến lược đa chiều của hắn - không chỉ tranh giành chiến trường với thảo nguyên, mà còn đoạt lấy "tâm" của họ.
Sau khi quân Đường chia năm mũi phá tan Tiết Diên Đà, Lý Thế Dân không vội thôn tính, mà thiết lập Yên Nhiên Đô Hộ Phủ, bố trí các bộ lạc vào các phủ châu khác nhau, phong thủ lĩnh làm đô đốc, thứ sử. Vừa ban vinh hoa quyền vị, vừa khóa ch/ặt trong hệ thống Đại Đường. Đây không phải ki mi đơn thuần, mà là cải tạo mang tính thể chế. Thủ lĩnh bộ lạc vừa hưởng tôn vinh, lại buộc phải phụ thuộc vào sắc phong Đường triều. Bởi một khi phản bội, họ không chỉ đối mặt với binh phong Thiên Khả Hân, mà còn áp lực từ các bộ lạc lân cận.
Lý Thế Dân hiểu rõ, điều đ/áng s/ợ nhất nơi thảo nguyên không phải một hãn quốc thống nhất hùng mạnh, mà là sức mạnh tổng hợp khi các bộ lạc hợp lưu. Bởi vậy, mục tiêu của hắn là không bao giờ để Mạc Bắc xuất hiện Hung Nô thứ hai, Đột Quyết thứ hai. Sự diệt vo/ng của Tiết Diên Đà chính là minh chứng rõ nhất. Trong triều hội ở Trường An, có đại thần từng nói với Thái Tông: "Nay uy vũ Đại Đường lừng lẫy, sao không nhân cơ hội đuổi hết các bộ lạc thảo nguyên, khiến chúng chạy xa tận Hãn Hải?" Lý Thế Dân lắc đầu mỉm cười, đáp lời đầy ẩn ý: "Đuổi thì chúng hợp lại, hợp thì họa sinh; Vỗ về thì chúng chia rẽ, chia thì thế yếu." Đây chính là tổng kết sâu sắc nhất của hắn về vấn đề thảo nguyên.
Sự thấu suốt này chính là điểm cao minh vượt trội các bậc tiền nhân của hắn.
Không chỉ vậy, Lý Thế Dân còn đặc biệt coi trọng "danh". Từ khi được suy tôn "Thiên Khả Hân", hắn hiểu rõ danh hiệu này không hề hư ảo, mà là thứ tư bản chính trị. Nó khiến Đại Đường không chỉ là đế quốc Trung Nguyên, mà còn là tông chủ của thảo nguyên. Mỗi chiếu thư ban cho bộ lạc thảo nguyên đều ký tên "Thiên Khả Hân", ngầm tuyên bố với thiên hạ: Quân trưởng của các ngươi chỉ là tiểu khả hân do ta phong. Ưu thế danh phận này khiến các bộ lạc thảo nguyên dù trong lòng bất mãn cũng khó công khai chống đối.
Trật tự quốc tế thời Thái Tông chính thành hình dưới tác động kép của "danh" và "thực". Đại Đường không còn chỉ là triều đình Trung Nguyên, mà trở thành siêu đế quốc trải dài qua hai thế giới nông canh và du mục.
Lý Thế Dân cũng thấu hiểu, chỉ dựa vào vũ lực và danh phận không đủ duy trì ổn định lâu dài, cần không ngừng bồi dưỡng lớp "người thảo nguyên thuộc hệ Đường". Bởi vậy, hắn đưa một số quý tộc thảo nguyên vào Trường An, ban chức tướng quân hoặc thứ sử, để họ dần đ/á/nh mất tính đ/ộc lập trong quá trình Hán hóa. Những người này vừa là con tin, vừa là cầu nối. Con cháu họ sẽ quen với chế độ y quan Đường triều, nói ngôn ngữ Đường, nhận ban thưởng Đường, cuối cùng trở thành một phần của đế quốc Đường.
Cách bố cục này không phải công một sớm một chiều, mà đặt nền móng cho sự kế tục trăm năm của Đường thất.
Tuy nhiên, chiến lược đa chiều này không phải không có cái giá phải trả. Bản thân Lý Thế Dân hiểu rõ, chinh ph/ạt quá mức sẽ khiến quốc khố trống rỗng, bách tính kiệt quệ. Sau khi Tiết Diên Đà diệt vo/ng, hắn nói với quần thần: "Từ nay về sau, thảo nguyên không còn địch mạnh. Việc binh đ/ao phải thận trọng hơn nữa." Đây là sự cảnh tỉnh của bậc đế vương sau khi thành công. Bởi hắn hiểu rõ, vinh quang Đại Đường không thể dựa vào chiến tranh vô tận, mà phải dùng chế độ và trật tự để duy trì.
Lịch sử cuối cùng sẽ chứng minh, chiến lược đa chiều của Lý Thế Dân thực sự hiệu quả. Mối đe dọa từ thảo nguyên thời Tùy Đường dần suy yếu sau Trinh Quán. Dù đời sau vẫn có nạn Khiết Đan, Thổ Phồn, nhưng dưới thời Thái Tông, Mạc Bắc cơ bản ổn định - điều cực kỳ hiếm thấy trong lịch sử triều đại Trung Nguyên.
Di sản hắn để lại không chỉ là mở rộng lãnh thổ, mà là tái định hình cục diện. Từ đây, thảo nguyên khó lòng tập hợp thành khối đối kháng với Trung Nguyên. Đại Đường lấy Trường An làm trái tim, mạch m/áu trải dài tận sâu sa mạc, vươn tới phía bắc Hãn Hải. Đây chính là chiến lược đa chiều của Lý Thế Dân - không đơn thuần là chinh phục, mà biến kẻ th/ù thành một phần trật tự; không phải u/y hi*p nhất thời, mà là bố cục lâu dài. Khi hắn tự xưng "Thiên Khả Hân", hắn không chỉ là hoàng đế Đường quốc, mà còn là trọng tài của thế giới thảo nguyên.
Và sau lưng vị đế vương này, hậu thế khó lòng lặp lại đỉnh cao như thế. Bởi hắn đã dung hợp chính trị và quân sự, uy nghiêm và khoan dung, chiến trường và triều đường, rèn đúc nên đáp án chỉ thuộc về riêng hắn.