Mấy lời này, vừa là lời dặn dò hậu bối, cũng là tổng kết cả một đời người. Trong gió lạnh tháng Giêng, Yên Th/ù lặng lẽ qu/a đ/ời, hưởng thọ sáu mươi lăm tuổi. Khi tin truyền đến cung điện, Tống Nhân Tông im lặng hồi lâu, cuối cùng chỉ thốt lên khẽ: "Tiên sinh rốt cuộc cũng đi rồi." Vua ban thụy hiệu "Nguyên Hiến" để tỏ lòng tôn kính. Nhưng tất cả đều hiểu, danh hiệu ấy không xóa được nỗi bi ai của Yên Th/ù - kẻ duy nhất gánh tội thay. Nhân Tông có lẽ kính trọng ông, nhưng cũng từng lợi dụng; có lẽ biết ơn, nhưng vẫn chất chứa h/ận th/ù. Mâu thuẫn ấy xuyên suốt mối qu/an h/ệ thầy trò của họ.
Khi bá quan bàn việc an táng, Nhân Tông ra lệnh cho Lễ bộ tổ chức long trọng, vượt xa quy chế của một tể tướng thông thường. Kẻ dưới thì thầm bàn tán: Nếu thực sự kính trọng, sao năm xưa hai lần giáng chức? Nếu thực sự h/ận th/ù, sao lại hậu đãi đến vậy? Nhưng sự thật lịch sử thường phức tạp hơn lòng người. Nhân Tông cần uy nghiêm, cần lập trường, và cần một đối tượng gánh chịu nỗi đ/au của mình. Yên Th/ù hội tụ đủ điều kiện - không bè phái, không tư lợi, chẳng gây xáo trộn chính trị, lại đủ trọng lượng để chấn nhiếp bá quan.
Ngày tang lễ, bão tuyết dữ dội. Sĩ tử và thường dân tự nguyện tiễn đưa, tiếng khóc vang khắp phố phường. Nhiều người đọc thơ Yên Th/ù: "Hoa rơi đành bất lực/ Chim én về quen quen" mà thấy xót xa. Dân chúng không rõ màn kịch cung đình, chỉ nhớ tấm lòng nhân hậu và văn chương của vị tể tướng. Đoàn người đưa tiễn kéo dài mấy dặm, không chỉ là tiễn biệt một đại thần, mà còn là vĩnh biệt tinh thần sĩ phu ôn nhu, lấy văn chương lập thân. Nhân Tông nhìn ra cửa sổ, nỗi đ/au như thủy triều dâng. Bỗng nhận ra cả đời mình sẽ mang mâu thuẫn: vừa muốn làm minh quân nhân từ, vừa phải thành hoàng đế tà/n nh/ẫn; vừa giữ bí mật cho mẫu hậu, vừa muốn minh oan cho sinh mẫu; vừa nhớ ơn dạy dỗ của thầy, vừa mượn thầy để lập uy. Tất cả khiến Yên Th/ù trở thành vật tế ngây thơ nhưng thích hợp nhất.
Năm tháng trôi qua, bụi thời gian phủ lấp. Hậu thế nhắc đến Yên Th/ù, thường nhớ ông là một trong những người mở đầu từ đàn Bắc Tống, danh tướng và văn tông thời Nhân Tông. Còn giai thoại chính trị bị ch/ôn vùi kia dần phai mờ. Chỉ vài sử sách ghi lại việc ông hai lần bị giáng chức vì bia m/ộ, cuối cùng bệ/nh ch*t. Với hậu nhân, đó chỉ là nét chấm phá của lịch sử. Nhưng với Nhân Tông, đó là nỗi đ/au khó ng/uôi nhất đời.
Vua chưa từng thực sự h/ận Yên Th/ù. Ngược lại, vua hiểu rõ hơn ai hết, Yên Th/ù mới là người trung thành nhất. Chính sự trung thành ấy khiến bí mật "mèo hoang đổi thái tử" càng thêm nhức nhối. Nhân Tông không thể trút gi/ận lên kẻ đã khuất, đành chọn cách trừng ph/ạt người thầy thân cận nhất. Đó là sự vô tình của đế vương, cũng là điểm yếu của nhân tính. Sau khi Yên Th/ù mất, Nhân Tông không đả động gì đến chuyện bia m/ộ. Trong triều hội, thi thoảng vua nhắc đến ân sư, nhưng chẳng bao giờ đi sâu. Có lẽ trong thâm tâm, đó là vết thương không bao giờ lành. Như lời vua từng thổ lộ với thân tín trong thư phòng: "Tiên sinh dạy trẫm văn chương, giúp trẫm đức hạnh, nay đã đi xa. Trẫm phụ lòng thầy, không mặt mũi nào gặp tiên đế dưới suối vàng."
Lời ấy được hậu thế ghi chép, trở thành lời phẩm định có sức nặng nhất về Yên Th/ù. Lịch sử luôn tàn khốc: bậc đế vương vì bảo vệ vương triều và uy nghiêm, buộc phải hi sinh người thầy kính trọng nhất; bề tôi vì giữ hình tượng quân chủ, buộc phải gánh tội không thuộc về mình. Đó là màn cuối vừa ấm áp vừa tà/n nh/ẫn giữa Tống Nhân Tông và Yên Th/ù.
Đêm sâu thẳm, đèn cung thành Khai Phong lung lay trong bão tuyết. Trước m/ộ Yên Th/ù, học trò và dân chúng đã thắp hương đèn xanh. Có người đọc khẽ câu thơ ông: "Đêm qua gió tây tàn cây biếc/ Một mình lên lầu/ Ngóng hết chân trời". Tiếng ngâm vang vọng trong đêm vắng, như dòng kết ai oán nhất cho một kiếp người.
Yên Th/ù ra đi, mang theo ký ức dịu dàng nhất thuở thiếu thời của Nhân Tông, cùng bí sử cung đình đẫm m/áu và dối lừa. Chỉ còn lại bóng hình "con dê tế thân duy nhất", cùng nỗi hối h/ận vua chẳng thể gỡ bỏ suốt đời.