Khóa sắt nghiêm ngặt, vòng cửa nặng nề, mỗi lần mở ra đều như kéo theo hơi thở của cả triều đại. Cái tên của nó – Kho Phong Trang, từ khi được Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn đích thân đặt cho đến nay, đã khoác lên mình màu sắc linh thiêng.
Thế nhưng, dòng chảy lịch sử chẳng cho nó một chốn an bình. Vốn dĩ là kho dự trữ chiến phí để thu phục Yên Vân, nhưng qua trăm năm, nó lại bị ép mở ra hết lần này đến lần khác, chỉ để bịt những lỗ hổng vô tận trong ngoài triều đình, trở thành một miếng vá vàng vĩnh viễn không thể hàn gắn.
Những năm Khánh Lịch, Hoàng Hà vỡ đê. Nước lũ cuồn cuộn, phá tan đê điều, vô số thôn làng chìm trong biển nước. Dân chúng các châu Hà Nam, Bắc Phương hoảng lo/ạn tháo chạy, tiếng khóc vang trời. Nhân Tông trong cung xem tấu chương, sắc mặt u ám, quần thần tranh nhau tâu bày. Ngân khố thường niên vốn đã bị ba núi lớn quan lại, binh lính và chi phí dư thừa đ/è nặng, số tiền lương thực có thể động dụng chẳng còn bao nhiêu.
Lúc này, có kẻ dè dặt đề xuất: "Hay là tạm mở Kho Phong Trang để giải quyết việc gấp?"
Triều đường lập tức chìm vào im lặng. Kho Phong Trang vốn là di pháp của tổ tông, kh/inh suất động vào là đại nghịch. Nhưng trước mắt, lũ lụt nuốt chửng ruộng đồng, dân chúng ly tán, nếu không c/ứu tế, e rằng sẽ n/ổ ra dân biến. Nhân Tông nhíu ch/ặt mày, cuối cùng đ/ập tay xuống án, hạ lệnh: "Mở kho c/ứu trợ!"
Lệnh vừa ban, tiền lương đổ ra như nước, tạm thời kh/ống ch/ế được họa Hoàng Hà. Dân chúng cảm tạ ơn đức, ca ngợi hoàng ân rộng lớn. Thế nhưng, trong triều lại âm thầm dấy lên bất an, bởi "tổ tông chi pháp" lại một lần nữa bị phá vỡ, khe nứt đã mở, tương lai khó lòng đóng kín. Chẳng bao lâu sau, chiến hỏa bùng lên nơi tây bắc. Chiến sự với Tây Hạ liên miên, binh sĩ biên cương lâu ngày không được cấp lương, quân tâm d/ao động. Triều đình bất đắc dĩ lại mở Kho Phong Trang, cấp ra mấy chục vạn quan tiền, chia lương cho quân biên phòng. Bạc nén vừa tới nơi, tướng sĩ phấn chấn, tiếng hò reo vang trời, biên phòng tạm yên. Thế nhưng số tiền này một khi đã ra đi, khó lòng quay về, Kho Phong Trang dần dần từ "vốn liếng chiến tranh" biến thành "kho thường bị thời chiến".
Có lần, Phạm Thuần Nhân - con trai Phạm Trọng Yêm - nhậm chức Tri Châu Khánh, gặp phải đại hạn, dân chúng lầm than khắp nơi. Lệnh trên chậm trễ chưa ban, tình hình ngày càng thảm thiết. Phạm Thuần Nhân tức gi/ận tự quyết định, tự ý mở kho phát lương, c/ứu sống vô số sinh linh. Hành động này chấn động triều đình, đáng lý phải trị tội, nhưng vì công lao không nhỏ, lại trở thành giai thoại đẹp. Dân gian truyền tụng, Kho Phong Trang trở thành kho lương c/ứu mạng dân lành.
Nhưng trong mắt sĩ đại phu, nó ngày càng mờ nhạt. Rốt cuộc nó là "kho riêng" của hoàng đế, hay là "ngân khố quốc gia"? Nó vừa có thể ban thưởng quân công, lại c/ứu đói giúp dân; vừa đào kênh đắp đê, lại khao thưởng tam quân. Ý chỉ của hoàng đế chính là vận mệnh của nó.
Sau triều Thần Tông, vai trò "miếng vá vàng" này càng lộ rõ. Giấc mơ bắc ph/ạt vẫn treo cao, nhưng lần lượt bị nội lo/ạn kéo chân. Hạn hán Hà Bắc vừa qua, Giang Hoài lại lũ lụt; Tây Hạ chưa dẹp yên, người Liêu đã múa may nơi biên ải. Mỗi lần nguy cơ ập đến, trên triều đường lại vang lên cuộc tranh luận quen thuộc: "Không được động! Kho này vốn vì Yên Vân mà lập!"
"Dân sắp ch*t, nếu không c/ứu, Yên Vân có ích gì?"
Tiếng tranh cãi nổi lên không dứt, mỗi lần hoàng đế phán quyết, đều là lựa chọn giữa phép tắc tổ tông và sinh mạng bách tính.
Trong trăm năm, vòng cửa Kho Phong Trang bị gõ mở hết lần này đến lần khác. Nó như giếng sâu, luôn có kẻ vơ vét, hiếm người nghĩ cách lấp đầy. Mục đích ban đầu – bắc ph/ạt thu phục, dần trở thành khẩu hiệu treo cao. Văn thần trong thơ ca ngâm vịnh "nỗi nhục Yên Vân chưa rửa", võ tướng trong yến tiệc đ/ập bàn hô to "ngày sau tất thu lại mười sáu châu", nhưng khi tấu chương dâng lên ngự án, kết luận thường chỉ có một: tạm cấp ngân kho, việc gấp là quan trọng.
Thế là ngọn "núi vàng" vốn nên châm ngòi chiến tranh, lại hóa thành miếng "vá c/ứu mạng". Nó lấp lỗ thủng Hoàng Hà, c/ứu vãn cục diện tây bắc, an ủi vô số dân đói, cũng thắp lên ngọn lửa lò sưởi của tướng sĩ.
Thế nhưng, sau mỗi lần vá víu, khe nứt lại rộng thêm.
Đến thời Huy Tông, Khâm Tông, của cải tích trữ trong kho vẫn kinh người, nhưng đã khó lòng gánh vác sứ mệnh ban đầu.
Quần thần thậm chí coi nó như "kho riêng" của hoàng đế, tùy tiện sử dụng. Có người nói: "Kho này còn, tựa như Đại Tống đeo bên hông một thanh bảo ki/ếm chưa rời vỏ." Nhưng trong lòng nhiều người rõ, thanh ki/ếm ấy đã han gỉ, g/ãy cùn chẳng thành khí.
Kho Phong Trang thành tấm gương phản chiếu Đại Tống, hiện lên một nỗi bất lực: giàu có mà không mạnh, tích trữ mà chẳng dám dùng.
Ánh nến cung đình lung lay, các đời hoàng đế từng đứng trước cửa kho, trầm tư lâu giờ. Có lẽ trong lòng họ đều hiểu, sự tồn tại của bảo khố này vốn là biểu tượng của mâu thuẫn: nó vừa gánh giấc mơ thu phục cố thổ, lại định mệnh bị hiện thực bào mòn.
Mà giấc mơ ấy, theo từng tiếng cót két mở kho, dần dần xa rời.
Chương 6: Kỳ Th/ù Tĩnh Khang - Trăm Năm Tích Lũy Chảy Vào Túi Giặc
Trên thành Biện Lương, tiếng gió mang theo chấn động vó ngựa.
Tống Huy Tông đã thoái vị, Tống Khâm Tông trước u/y hi*p của quân Kim, r/un r/ẩy ngồi sau ngự án. Ngoài thành, doanh trại quân Kim lửa trại liên trời, giáo mác như rừng, tiếng ngựa hý nửa đêm còn đủ làm nát lòng người. Trong kinh thành, dân chúng hoảng lo/ạn, phố xá vắng tanh, tiếng trẻ khóc lẫn lời ăn xin.
Chiếu thư trong tay Khâm Tông đã ướt đẫm mồ hôi, hắn biết điều kiện của quân Kim đưa ra, không phải sức người có thể chống cự. Tướng Kim Hoàn Nhan Tông Vọng lạnh lùng ra lệnh, đòi mười triệu lượng vàng, mười triệu tấm lụa, mười triệu quan tiền. Con số như núi đ/è xuống, văn võ bá quan không ai dám hé răng, bởi ai nấy đều hiểu, nếu không đáp ứng, trong thành Biện Lương mấy trăm vạn người, sẽ ch/ôn vùi dưới lưỡi gươm ngọn giáo.
"Quốc khố có đủ số không?" Khâm Tông giọng r/un r/ẩy.
Lão thần Khu Mật Viện mặt mày xám xịt, khẽ tâu: "Kho thường của Tam Ty đã trống rỗng từ lâu. Chỉ còn... chỉ còn Kho Phong Trang."
Đại điện chìm vào tử tịch.
Kho Phong Trang, bảo khố tích lũy qua các đời Thái Tổ, Thái Tông, Nhân Tông, Thần Tông, số của cải khổng lồ vốn chuẩn bị cho việc thu phục Yên Vân, giờ đây bị đẩy lên đầu ngọn sóng. Không ai ngờ rằng, nó không được dùng để chống lại kẻ địch phương bắc, mà trở thành "tiền chuộc mạng" dâng lên quân th/ù.
Khâm Tông từ từ khép mắt, khóe mắt rỉ lệ.