Hai người tuy trải qua vô số sóng gió, rốt cuộc vẫn đi đến bên nhau, lời nguyện "bạch đầu giai lão" dường như không hóa thành mây khói. Nhưng chữ "bạch đầu" ấy, đã khác xa so với giấc mơ thuở ban đầu.
Nàng nhớ lại câu thơ năm xưa tuổi trẻ từng viết: "Nguyện được nhất tâm nhân, bạch đầu bất tương ly." Biết bao lần trong mộng, nàng trở lại đêm trăng ấy, Tương Như gảy khúc "Phượng Cầu Hoàng", trái tim nàng rung động bồi hồi. Thuở ấy, nàng ngây thơ tin rằng tình yêu có thể chiến thắng tất cả. Giờ đây nàng mới hiểu, tình yêu chỉ có thể thắng được sự bồng bột nhất thời, chứ sao địch nổi sự tàn khốc của năm tháng và lòng người.
Dân chúng Lâm Cung thành vẫn truyền tụng giai thoại của họ. Chuyện tư bôn năm nào, cảnh b/án rư/ợu bên lò, đến nay vẫn là đề tài trong các quán trà. Trai gái trẻ tuổi nhắc đến thì ánh mắt đầy mộng mơ, người già lại lắc đầu bảo đó chỉ là trò hồ đồ. Văn Quân mỗi lần nghe thấy, trong lòng trăm mối ngổn ngang.
Một lần, nàng cùng Tương Như dạo chơi Lâm Cung. Trên phố có kẻ chỉ trỏ: "Nhìn kìa, đó là Trác Văn Quân và Tư Mã Tương Như đấy." Kẻ thì hâm m/ộ, người lại chê cười. Văn Quân nghe vào tai, sắc mặt vẫn bình thản. Về đến nhà, nàng mới thản nhiên nói: "Một đời chúng ta, đã thành câu chuyện trong miệng thiên hạ."
Tương Như thở dài, lặng thinh. Hắn hiểu tâm trạng của Văn Quân. Người phụ nữ này, cả đời đấu tranh trong tỉnh táo. Nàng không chịu khuất phục trước sự sắp đặt của phụ thân, không muốn trở thành công cụ cho quyền lực, không để lòng đa tình của chồng nhấn chìm mình. Nàng dùng tài hoa và sự quyết liệt để giữ lấy nhân phẩm. Nhưng sự tỉnh táo ấy, cuối cùng lại khiến nàng cô đ/ộc vô cùng.
Những đêm khuya thanh vắng, Văn Quân thường ngắm trăng mà thẫn thờ. Nàng nhớ mẫu thân, nhớ khuê phòng năm xưa ở Lâm Cung, nhớ phụ thân thuở ấy. Giá như nàng không chọn trốn đi, liệu có được một đời bình yên? Nhưng trong thâm tâm nàng hiểu rõ, sự bình yên ấy không phải thứ nàng mong muốn. Thà bị thời đại phụ bạc, nàng cũng không muốn phụ lòng chính mình.
Những ngày Tư Mã Tương Như lâm bệ/nh nặng, Văn Quân luôn kề cận chăm sóc. Nàng sắc th/uốc, dâng cơm, chăm chút từng li từng tí. Tương Như nắm tay nàng, giọng khản đặc: "Văn Quân, cả đời này, ta n/ợ nàng quá nhiều."
Nước mắt nàng lăn dài, chỉ khẽ lắc đầu: "Không cần nói nữa. Ta chưa từng hối h/ận."
Khoảnh khắc ấy, trong mắt Tương Như thoáng hiện niềm hối h/ận sâu thẳm. Nhưng đời này đâu có thể quay lại. Sự ngông cuồ/ng và tham lam thời trai trẻ, đã tạo ra vết rạn không thể hàn gắn.
Sau khi Tương Như qu/a đ/ời, Văn Quân một mình giữ căn nhà trống. Nàng vẫn gảy đàn, vẫn làm thơ. Dân thành Thành Đô bảo rằng tiếng đàn của Trác Văn Quân nghe như tiếng khóc than, tựa hồ đang kể lại mối tình dang dở đầy ngậm ngùi. Thơ nàng truyền khắp Ba Thục, bao thiếu nữ đọc xong đều thổn thức. Kẻ bảo nàng may mắn vì dám đuổi theo tình chân thật, người lại nói nàng bất hạnh vì quá tỉnh táo, rốt cuộc bị thời đại phụ bạc.
Nhiều năm sau, tóc Trác Văn Quân bạc trắng như tuyết. Trước lúc lâm chung, nàng vẫn đặt cây Lục Ỷ cầm bên gối. Nàng nhìn ánh trăng ngoài cửa sổ, thì thầm: "Nguyện được nhất tâm nhân, bạch đầu bất tương ly." Câu nói ấy theo nàng suốt cả cuộc đời, trở thành giấc mơ lớn nhất, cũng là sự châm biếm lớn nhất của đời nàng.
Khi khép mắt, nàng như lại trở về đêm trăng năm ấy. Tiếng đàn Lục Ỷ văng vẳng bên tai, bóng dáng Tương Như rõ ràng như mới hôm qua. Nàng mỉm cười, nụ cười mang theo sự buông bỏ.
Hậu thế nhớ đến tài hoa của nàng, nhớ sự quyết liệt, nhớ câu chuyện tình nàng. Nhưng chỉ riêng nàng hiểu, cả đời mình chỉ là hình bóng thu nhỏ của kẻ bị thời đại ruồng bỏ.
Ở thời đại ấy, nữ nhi có thể có tình yêu, có thể có tài hoa, nhưng rốt cuộc không thể nắm giữ vận mệnh. Trác Văn Quân dành cả đời chứng minh nữ nhi có thể tỉnh táo, có thể dũng cảm, không thua kém nam nhi. Thế nhưng, nàng cũng dành cả đời để chứng minh rằng sự tỉnh táo và dũng khí ấy, thường là gánh nặng nặng nề nhất.
Bóng trúc đung đưa, tiếng gió vi vu. Thành Thành Đô vẫn phồn hoa, còn người nữ tử kỳ dị năm xưa dám bỏ trốn theo tình, dám bên lò b/án rư/ợu, dám đoạn tuyệt quyết liệt, cuối cùng đã lặng lẽ ra đi.
Hậu thế đọc thơ nàng, đọc đến "Bài Ca Tóc Bạc", lòng nào không chấn động. Đó là m/áu và nước mắt của một nữ tử, là sự tỉnh táo và bất mãn của cả một đời người. Người đời ca tụng sự dũng cảm của nàng, nhưng lại bỏ qua nỗi cô đơn của nàng.
Mười năm đầu đời Trác Văn Quân là khát khao ch/áy bỏng, mười năm giữa là tranh đấu và đối kháng, mười năm cuối là tình thân và đồng hành. Cuộc đời ấy đã bị người đời diễn thành giai thoại, nhưng chỉ riêng nàng hiểu rằng, đằng sau đó là nỗi cô tịch và bất đắc dĩ đến nhường nào.
Nàng rốt cuộc đã bị thời đại phụ bạc.