Hắn đột nhiên lên tiếng: "Trong hộp là vật gì?"
Sứ giả khựng lại một nhịp, ngoảnh nhìn người kia. Kẻ ấy lập tức quỳ xuống, hai tay nâng cao chiếc hộp. Tư Lễ Giám tiếp nhận, mở ra. Bên trong là một ống cát dài, đựng trong ống thủy tinh trong suốt, màu tựa chu sa, lấp lánh những điểm sáng trắng. Sứ giả cười: "Cát Hòa Lâm, xin dâng lên thiên triều. Nếu thánh triều dùng, có thể thử nghiệm ấn quan."
Cao Củng thu nhỏ đồng tử. Trương Cư Chính giơ tay gõ nhẹ lên thủy tinh, âm thanh vang giòn như đ/ốt tre. Hắn ngẩng lên nhìn hoàng đế. Chu Tái Kỷ sắc mặt không đổi, đưa ngón tay vạch một đường không hằn trên thành ống. Thu tay về, hắn bình thản nói: "Cát Hòa Lâm, đường biển cũng có thể tới Giang Nam."
Tiếng cười sứ giả tắc nghẹn. Cao Củng thừa thế chèn ép: "Nghị hòa phong cống, có thể thành một nửa. Nửa còn lại, tùy vào câu trả lời ngày mai của các ngươi."
Câu nói này đ/è nặng cuộc đàm phán lên sợi dây mảnh - sợi dây không siết cổ, nhưng siết lòng người. Sứ giả phương Bắc chắp tay, lui ra. Trương Cư Chính và Cao Củng liếc nhau, cả hai đều thấy lưỡi d/ao giấu kín trong đáy mắt đối phương.
Yến tiệc tan, Chu Tái Kỷ trở về ngự thư phòng. Ngựa trạm của Cố Hành Giản chưa tới, tin cấp báo thứ hai từ Kế Trấn đã đến - "Kẻ cầm ấn giả 'Thái Thượng' đã bắt, chưa khai, cấm nói; quanh eo tìm được nửa mảnh khuôn gỗ, khắc một nét chữ 'Giám'."
Chu Tái Kỷ cầm mảnh khuôn, đầu ngón tay nóng ran như chạm vào yết hầu ai đó. Hắn đưa khuôn cho Trương Cư Chính: "Giao nội các, cho vào rương 'Kiến Ảnh'." "Rương Kiến Ảnh" là chiếc hòm bí mật mới đặt, chuyên chứa những thứ "không lộ, không dùng, nhưng phải để thiên hạ biết ta đã thấy". Rương không vào án, không vào sổ, chỉ vào lòng. Trương Cư Chính ôm hộp vừa định lui, Tư Lễ Giám hớt hải bước vào: "Bệ hạ - gian ngục hỏa hoạn!"
Chu Tái Kỷ bước vội ra, giọng lạnh: "C/ứu."
Lửa không lớn, đến khéo, bùng lên từ góc giấy quấn cửa sổ gian giam Ngụy Đồng. Nước vừa tưới đã tắt. Ngụy Đồng ho hai tiếng, mặt đen xạm, mắt vẫn sáng. Hắn bị kéo ra hành lang, thở một hơi, ngẩng mặt nói: "Bệ hạ, trên gió có mùi muối."
Chu Tái Kỷ dừng bước: "Muối của ai?"
Ngụy Đồng cười nhạt: "Không phải muối, là cát Hòa Lâm trộn trong muối, theo gió đi." Hắn ho hai tiếng, giơ tay chỉ về hướng bắc, "Gió từ đó thổi tới." Chu Tái Kỷ đưa mắt xuyên qua mái hiên, dừng ở khoảng không phương bắc. Nơi ấy không có lửa, chỉ một lớp trắng mỏng manh. Thu tầm mắt, hắn bảo Cẩm Y Vệ: "Trong ngục có kẻ phóng hỏa, sau khi tự ải bất thành lại đến lượt này. Không cần hỏi, trước hết kiểm tra mắt cá chân lính canh." Cẩm Y Vệ hiểu ý, hai cây kim tối quả nhiên được rút ra sau xươ/ng mắt cá hai tên lính gác. Chu Tái Kỷ cười lạnh: "Ngoài giấu kim còn giấu lửa. Ghi hết vào sổ. Kiến ảnh - bất kiến hình."
Hắn quay sang nhìn Ngụy Đồng. Hai ánh mắt chạm nhau, thời gian ngắn ngủi như lưỡi d/ao cà qua mép sứ. Chu Tái Kỷ thu d/ao về, bình thản nói: "Ngươi ở tối thêm ba ngày."
Ngụy Đồng cúi đầu: "Tuân chỉ." Hắn bị áp giải về gian giam, bóng lưng đan xen với tro tàn, như nét vẽ trên lớp bụi xám.
...
Ngựa Cố Hành Giản vào kinh lúc giữa trưa ngày thứ hai. Ngựa trạm phi nước đại, mồ hôi đóng băng, hắn xuống ngựa chân mềm nhũn, vẫn đưa ra trước hai vật trong áo choàng: nửa mảnh khuôn gỗ, một túi cát.
Trương Cư Chính đón hắn dưới hiên, ánh mắt lướt qua, tinh thần phấn chấn: "Tốt." Hắn dẫn Cố Hành Giản vào ngự thư phòng. Chu Tái Kỷ đích thân đưa tay mở túi da, ngửi một cái, chân mày khẽ động. Hắn rắc cát lên tờ giấy trắng, lập tức một mùi tanh ngọt lan tỏa. Nụ cười hắn mỏng như sương: "Khứu giác sẽ nhớ. Cho tất cả thợ ngửi ấn trong kinh thành ngửi thử."
Sau khi ngửi qua, Chu Tái Kỷ sai người đem ống cát Hòa Lâm và túi cát Giang Nam đối chiếu. Hai loại cát trộn vào nhau, màu gần như không khác, chỉ hạt cát hơi khác - Giang Nam mịn hơn, phương bắc cứng hơn. Hắn im lặng một chặp, chỉ tay ra cửa sổ: "Gió trộn hai thứ thành một mâm. Ai đang trộn?"
Câu hỏi không ai dám đáp. Cố Hành Giản nuốt cơn khô cổ, "Thần cho rằng kẻ trộn cát ở ngoài Tư Thị Bác, trong ngành muối. Một khi tuyến muối và tuyến ấn dính vào nhau, dân gian sẽ tin 'chiếu chỉ từ cung trung'. Gió này không dứt, Giang Nam không yên."
"Dứt gió." Chu Tái Kỷ phán, "Một, Tư Thị Bác thử nghiệm 'lệnh trách'; hai, ngành muối đổi 'chế độ dẫn'; ba, Giang Nam lập 'hôn thư tam chứng'; bốn, Kế Trấn lập 'tam ấn nghiệm chiếu'. Mỗi tờ phát riêng, lưu trung, không qua ngoại triều." Trương Cư Chính vâng lệnh, cất kín bốn tờ chiếu vào tay áo, vạt áo buông xuống như thu bốn đoản đ/ao.
Cố Hành Giản khoanh tay, lui đến cửa, lại bước lên: "Bệ hạ, xin thêm một điều - phàm kẻ giả mạo tông thất quấy nhiễu dân, 'hôn nhân chính trị' nhất loạt hủy, đã thành cũng có thể bãi. Thần nguyện làm chứng, trước tiên hủy 'mối giả' của họ Hứa ở Lạc Viên phường."
Chu Tái Kỷ nhìn hắn, tia sáng lạnh trong mắt bỗng ấm lên chút ít. Hắn gật đầu: "Chuẩn. Người bị hủy trong ba ngày phải ghi tên vào sổ, sau này được bảo hộ. Kẻ nào ngăn - trượng."
Làn sóng đối chất thứ ba diễn ra buổi chiều. Hai quan tông thất mặc áo tử điêu vào điện, muốn lấy 'thể diện tông thất' đòi 'hôn lễ ban đêm tùy nghi'. Cao Củng dùng lễ pháp ngăn một, Trương Cư Chính dùng án 'trượng tông' đ/è hai. Hai người qua lại đàm luận, cuối cùng đ/è ra bốn chữ: "Kiến ảnh bất kiến." Quan tông thất nghiến răng, cắn lưỡi, cắn da mặt, rốt cuộc nhịn được, lui ra. Chu Tái Kỷ bảo: "Hai khanh về mỗi người chép Lễ Ký ba lần, ba ngày dâng một lần, sai một chữ, trượng ba mươi." Hai người mặt xám xịt, vâng lời. Đây không phải s/ỉ nh/ục, mà là sợi dây thòng lọng siết cổ. Dây siết lâu, người ta tự biết đi đường phải ngay.
Đêm, sứ giả phương Bắc lại dự yến. Lần này, ống cát Hòa Lâm đặt trên bàn góc, không che vải. Sứ giả ngồi xuống, ánh mắt lướt qua, nụ cười thu lại một phần. Khẩu khí họ mềm đi một tấc, chịu nhượng bộ về 'số ngựa phong cống' và 'danh mục hàng hóa'. Chu Tái Kỷ nâng chén, không nói vui, chỉ khẽ chạm chén phát ra tiếng vang không cao không thấp. Hắn biết, tiếng này không phải của rư/ợu, mà của sợi dây - dây không còn siết hắn nữa, mà siết ra ngoài.
Yến chưa tan, hướng Ngọ Môn vang lên trống cấp, Tư Lễ Giám hớt hả vào quỳ báo: "Bệ hạ - người cầm chiếu ở doanh trại khai một câu: 'Thái Thượng lệnh bài ở kinh!'" Trong điện đột nhiên tĩnh lặng, trong tĩnh lặng ấy trái tim mỗi người chùng xuống nửa phân.
"Ở đâu trong kinh?" Trương Cư Chính hỏi.
"Khai báo nói: 'sau hồ sơ, trước ấn tín, trong cửa, ngoài cửa'." Tư Lễ Giám cười khổ, "Tựa lời đi/ên."
Chu Tái Kỷ ánh mắt trầm xuống, đường môi thẳng tắp. Hắn đột nhiên quay người hướng Lưu Trung sở đi. Lưu Trung sở đêm chỉ để một ngọn đèn, ánh sáng mờ. Hắn đi đến trước 'Lưu Trung sở văn thư nhập xuất lục', đầu ngón tay nhẹ nhàng ấn lên góc giấy. Dưới góc giấy tựa có gì hơi nhô lên, hắn vén tờ giấy lên, lộ ra trên mặt bàn một khe hở nhỏ bằng đ/ốt ngón tay.