Tổng quản ra lệnh phong tỏa các cửa điện không cần thiết, chỉ để lại vài lối đi lại. Tôn Diệu Đình cùng mấy tiểu thái giám được phái đi dọn dẹp hành lang phía đông. Bụi bặm bay lượn trong ánh sáng ban mai, hắn nghe thấy từ xa một tiếng n/ổ vang trời, tựa như bức tường cũ kỹ nào đó đã hoàn toàn sụp đổ.
Chỉ trong vài ngày, biểu tượng cuối cùng của triều đại Đại Thanh hoàn toàn tan rã. Uyển Dung buộc phải cùng Phổ Nghi rời khỏi Tử Cấm Thành, đến Thiên Tân rồi dời đến Ngụy Mãn Châu Quốc ở Trường Xuân. Tôn Diệu Đình không đi theo, hắn được sắp xếp ở lại trông nom những cung thất và đồ vật còn sót lại, trên danh nghĩa là "thủ cung", kỳ thực chỉ là canh giữ cái vỏ trống rỗng bị thời đại vứt bỏ.
Mùa đông trong Tử Cấm Thành càng thêm hiu quạnh. Gió đêm lùa qua khe ngói điện Thái Hòa, cuốn theo bụi bặm cùng tro hương năm cũ. Tôn Diệu Đình mỗi ngày đi tuần tra, quét dọn những dãy phòng không người lui tới, tưới nước cho những bồn hoa đã hoang tàn. Hắn bước qua những con đường quen thuộc, bên tai dường như vẫn vẳng vẳng tiếng cười của Uyển Dung, tiếng kẹo rơi lóc cóc, tiếng gió vút qua xích đu.
Thỉnh thoảng, hắn lại mở chiếc bình sứ nhỏ giấu dưới gối ra xem. Bên trong phong kín là "mệnh căn" mà cha hắn đã c/ắt bỏ khi hắn mười tuổi. Dầu thơm vẫn trong vắt, nhưng thời gian đã cuốn trôi ký ức đỏ tươi năm nào. Hắn khẽ đậy nắp bình, tự nhủ: "Sống tiếp đi, đừng để nhát d/ao đó trở nên vô nghĩa."
Bên ngoài cung tường, thời đại đã lật sang trang mới. Chính phủ mới tiếp quản tài sản hoàng cung, các thái giám lần lượt ly tán, kẻ mở quán ăn vặt, người làm nghề kể chuyện. Có người khuyên Tôn Diệu Đình cũng nên rời đi, hắn chỉ lắc đầu: "Nơi này vẫn cần ta." Giọng hắn bình thản, như hòn đ/á rơi xuống nước, chẳng gợn bao nhiêu gợn sóng. Mỗi đêm khuya, hắn một mình đi trên con ngự đạo trống vắng, ánh trăng như nước kéo dài bóng hình. Bên tai thỉnh thoảng vọng lại lời Uyển Dung: "Ngươi hiểu cách an thân hơn tất cả chúng ta." Câu nói ấy trở thành tiếng vọng duy nhất trong những năm tháng thủ cung dài đằng đẵng của hắn.
Trong cung điện bị thời đại ruồng bỏ này, Tôn Diệu Đình đã canh giữ suốt nhiều năm. Thế sự bể dâu, trong ngoài hoàng cung sớm đã đổi thay, chỉ riêng hắn vẫn như cái bóng, cùng tòa thành trống rỗng bầu bạn, phong kín từng tấc m/áu - nước mắt, nụ cười - nỗi đ/au vào từng thớ thời gian.
Chương 7: Nỗi Đau Mất Nước Lưu Lạc - Uyển Dung Sa Ngã, Tôn Diệu Đình Già Đi Trong Cô Đơn
Gió xuân năm 1931 không mang theo hương hoa, mà mang theo bóng đen chiến hỏa. Uyển Dung theo Phổ Nghi lên phía bắc Trường Xuân, vào ở trong cái gọi là "hoàng cung" của Ngụy Mãn Châu Quốc. Bên ngoài là tòa nhà Tây phương kiểu mới, bên trong vẫn là tầng tầng lớp lớp cấm cung. Tôn Diệu Đình không đi theo, hắn ở lại canh giữ những sân viện trống trải của Tử Cấm Thành, thỉnh thoảng nghe được vài mẩu tin vụn vặt - Uyển Dung ngày càng g/ầy gò, bắt đầu nghiện th/uốc phiện, cái danh hoàng thất kia chỉ là làn khói phù du.
Nhiều năm sau, thế giới bên ngoài cung môn đã hoàn toàn thay đổi. Bắc Bình đổi tên thành Bắc Kinh, chính phủ mới thi hành các chính sách cải cách. Những lão thái giám quanh Tôn Diệu Đình lần lượt ra đi: kẻ mở quán ăn vặt, người về quê làm ruộng, cũng có kẻ không biết đi đâu. Riêng hắn vẫn không chịu rời đi. Mỗi ngày, hắn vẫn quét lá rụng trong ngự hoa viên, lau chùi bàn ngọc trong điện trống, như đang giữ gìn lời thề bị thời gian lãng quên. Thỉnh thoảng hắn lại nhớ đến nụ cười của Uyển Dung. Tiếng cười từng vang vọng trong đêm thâm cung, giờ đây như cách xa bởi lớp sương m/ù dày đặc. Hắn biết, nàng đã mắc kẹt trong một nhà tù vô hình khác. Tin tức truyền đến: Uyển Dung ngày càng lệ thuộc vào th/uốc phiện, thường xuyên cả ngày không thấy mặt trời. Phổ Nghi cũng đang loay hoay giữa ngai vàng chao đảo, vết rạn giữa vợ chồng đã không thể hàn gắn.
Ngày tháng dần trôi. Bốn mùa trong Tử Cấm Thành vẫn luân chuyển: mưa xuân ẩm ướt góc tường, nắng hạ th/iêu đ/ốt mái điện, gió thu cuốn lá vàng, tuyết đông đ/è nặng cành khô. Bước chân Tôn Diệu Đình cũng ngày một chậm dần. Đêm đêm, hắn lại lấy chiếc bình sứ nhỏ dưới gối ra, khẽ mở nắp, nhát d/ao phong kín năm nào đã không còn màu m/áu, chỉ thoang thoảng mùi dầu thơm. Đó là khởi đầu số mệnh hắn, cũng là biểu tượng cho sự cô đ/ộc của hắn.
Năm 1945, Nhật Bản thất bại, Ngụy Mãn Châu Quốc sụp đổ. Uyển Dung bị đưa đi khắp Liêu - Cát, cuối cùng đến năm 1946 thì qu/a đ/ời trong đ/au đớn bệ/nh tật và cơn nghiện.
Khi tin tức truyền đến Bắc Kinh, Tôn Diệu Đình đang ngồi một mình trên bậc thềm dưới Ngọ Môn, tay nắm ch/ặt bức thư từ đồng liêu cũ. Lá thư đã nhòe nhoẹt vì nước mắt, thế mà hắn vẫn đọc đi đọc lại ba lần, cho đến khi trăng lên cao vượt khỏi tường cung.
Đêm ấy, hắn không thắp đèn, chỉ lặng lẽ dựa vào cửa cung. Trong đầu văng vẳng lời nói cuối cùng của Uyển Dung: "Ngươi hiểu cách an thân hơn tất cả chúng ta." Cuối cùng hắn cũng hiểu, đó không chỉ là lời khen ngợi, mà còn giống như một sự ủy thác - khi mọi vinh hoa đã hóa thành cát bụi, vẫn có người ghi nhớ hơi ấm một thời.
Những ngày sau đó, Tôn Diệu Đình sống cuộc đời gần như ẩn sĩ. Chính quyền mới tiếp quản cung điện, hắn được mời làm hướng dẫn viên, phụ trách kể cho du khách nghe những chuyện cũ trong cung. Du khách ngạc nhiên trước sự trầm tĩnh của hắn, nhưng ít ai biết rằng mỗi chữ hắn kể đều mang theo sức nặng của m/áu và nước mắt.
Thời gian trôi qua không hề hay biết. Ngoài Tử Cấm Thành, đường phố đã đầy đèn điện xe ngựa, trong cung tường, gạch xanh vẫn nhuốm màu tang thương. Lưng Tôn Diệu Đình ngày càng c/òng xuống, nhưng hắn vẫn kiên trì mỗi ngày quét dọn ngự đạo, như thể chỉ cần phiến đ/á sạch sẽ, ký ức sẽ không bị bụi thời gian vùi lấp.
Mùa đông năm lâm chung, hắn bảo người đặt chiếc bình sứ nhỏ bên gối. Bộ phận sinh dục thuở thiếu niên trong bình đã khô thành hạt tro vô danh. Hắn nhìn tuyết ngoài cung tường, khóe miệng nở nụ cười nhạt nhòa: Cuộc đời hắn, bắt đầu từ nhát d/ao năm mười tuổi, cuối cùng cũng khép lại trong chiếc bóng cô đ/ộc nơi thủ cung.