Ông là thiên tài nghệ thuật một thời, sáng tạo nên "thể chữ Sấu Kim", vẽ nên bức "Đoàn Hạc Cát Tường", được tôn xưng là bậc chúa tể phong nhã nghìn thu. Thế nhưng ông cũng chính là vị vua mất nước, tự tay x/é bỏ Hòa ước Thiền Uyên, cõng rắn cắn gà nhà, ch/ôn vùi cơ nghiệp hai trăm năm của Bắc Tống. Sau sự biến Tĩnh Khang, hai vua Huy Tông, Khâm Tông bị bắt giải về phương Bắc, ba nghìn tông thất bị áp giải đến vùng đất băng giá như súc vật. Trước Thái Tổ miếu, họ phải khoác da cừu, dắt dây gai, quỳ lạy phủ phục, nỗi nhục tày trời ấy đã ngh/iền n/át tôn nghiêm cuối cùng của Đại Tống. Chín năm tù đày, những nét chữ Sấu Kim Huy Tông vẽ trên sương giá trở thành hơi thở mong manh còn sót lại. Đến khi th* th/ể bị th/iêu đ/ốt, mỡ người dùng làm đèn thắp, phẩm giá đế vương tan thành ngọn lửa lạnh lẽo. Khâm Tông sống lay lắt hơn hai mươi năm, cuối cùng ch*t thảm dưới vó ngựa giẫm đạp. Chu Hoàng hậu gieo mình xuống nước tuẫn tiết, cung cấm Bắc Tống trở thành đồng hoang nhuốm m/áu và nước mắt. Đây là cuốn tiểu thuyết lịch sử viết về những nỗi nhục hình và sự tàn khốc tột cùng. Nó cảnh tỉnh chúng ta: Phong nhã có thể lưu danh thiên cổ, nhưng không c/ứu nổi một ông vua hôn ám. Nghệ thuật dù hưng thịnh đến đâu, cũng không che lấp nổi nỗi nhục của cả một dân tộc.